“Như nước là ta”




Ðào Duy Anh nhận xét người Việt Nam “thích ứng và dung hóa rất tài”.(1) Cao Xuân Huy cho rằng chúng ta “có cái đặc tính mềm mại, uyển chuyển, linh hoạt, lưu động, như nước” và bảo “nước (...) dễ tính (...) không phải là vì nó không có cá tính. Trái lại, đó là cái khả năng thích ứng vô hạn của nó (...) chính cái khả năng thích ứng (...) là cái tính ưu việt, cái bí quyết sinh tồn của dân tộc ta”.(2) Gần đây hơn, Phan Ngọc, Trần Quốc Vượng, Trần Ngọc Thêm tìm hiểu bản sắc văn hóa Việt Nam cũng đều nhấn mạnh đặc điểm linh hoạt.

Việt tính “như nước” nhìn đâu cũng thấy. Chúng tôi xin ôn lại biểu hiện của nó trong nghệ thuật dân tộc, sau đó trình bày chút suy ngẫm về tiếp xúc văn hóa xưa nay.

*

“Hoàng Hạc lâu” của Thôi Hiệu ở ta rất nhiều người dịch. Nguyên tác:

“Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ
Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản
Bạch vân thiên tải không du du
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hương quan hà xứ thị
Yên ba giang thượng sử nhân sầu”
.

Bài thơ tám câu, chỉ hai câu cuối nghe êm tai.

Trong Đường thi, khi nhận xét về bài “Phong kiều dạ bạc” của Trương Kế: “hay ở âm điệu, ít khi làm được như thế”, Trần Trọng Kim đã vô tình nói ra chỗ yếu của thơ Đường, là điển hình không hay về âm điệu.

“Hoàng Hạc lâu” dịch ra tiếng Việt ra sao?

Vũ Hoàng Chương:

“Xưa cánh hạc bay vút bóng người
Nay lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi
Vàng tung cánh hạc, bay bay mãi
Trắng một màu mây, vạn vạn đời
Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu
Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi
Gần xa chiều xuống, đâu quê quán?
Ðừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!”.


Êm tai hơn hẳn. Vẫn luật Đường mà nghe khác, hiển nhiên do đã chuyển qua thứ tiếng nói khác.

Tiếng Việt có gì lạ?

Tản Đà từng bảo: “Chữ quốc ngữ của ta, âm và vận so với chữ nước khác, hãy nói như chữ Tàu, thì rất là giàu đủ và tách bạch hơn”.(3)

Từ vựng thế, còn ngữ pháp thì “Đề - Thuyết”, cực kỳ linh động.(4)

Trách thơ “mềm” ngay cả khi vẫn còn làm theo luật “cứng”!

Nếu dịch mà đổi cả thể thơ nữa:

“Hạc vàng ai cưỡi đi đâu
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”
,

như Tản Đà đã làm, thì kết quả càng thêm êm tai, tới mức gần như một bản nhạc!

Tiếng Việt chỉ mới nói thôi mà nhiều người nước ngoài nghe đã thấy gần như hát. Còn thể lục bát, hồi thế kỷ 19 Phạm Ðình Toái nhận xét “có vẻ quanh co, lưu chuyển”(5), tức rất thuận tiện cho việc đem chất nhạc vào thơ. Bản dịch Tản Đà đặc biệt du dương là nhờ đã tiếng Việt lại thơ lục bát.

Xuân Diệu từng bảo Truyện Kiều là một bản nhạc dài.(6) Việt tính, khi người Việt nói người Việt thơ, biểu hiện thành nhạc tính!

*

Trong mỹ thuật đời Lý, Thái Bá Vân nhận thấy có “sự nổi dậy kín đáo của một ý chí nghệ thuật cương quyết nhưng mềm mại (...) một nét thuộc bản sắc dân tộc” và nêu ra “hai chỉ tiêu nền tảng” của mỹ thuật Việt Nam truyền thống: “nhịp nhàng”“cân xứng”.(7)

Ngắm nghía các tượng Phật đời Lý, Chu Quang Trứ cũng thấy “những đường nét hết sức mềm mại và uyển chuyển, bố cục cân xứng nhưng không đơn điệu (...) Nét dân tộc bật ra rất rõ, quán xuyến (...) toàn bộ (...) khác hẳn các hình tượng cùng đề tài của những dân tộc láng giềng”.(8)

Cái phong cách độc đáo ấy hóa ra nghệ thuật ta đã có từ rất lâu trước Lý!

Bình Nguyên Lộc nhận xét chung: “Đồ gốm ở Cổ Việt khéo không kém đồ gốm cổ của Tàu, nhưng khác hẳn”.(9)

Hà Văn Tấn phát biểu cụ thể về đồ gốm Phùng Nguyên: “(Cư dân) ưa thích họa tiết tạo nên bằng những đường cong. Tất cả đều uyển chuyển, thanh thoát, dứt khoát mà vẫn mềm mại, nhịp nhàng mà không đơn điệu”.(10) Văn hóa Phùng Nguyên tồn tại trong khoảng từ 4.000 đến 3.500 năm cách ngày nay. Đời xửa đời xưa, nghệ thuật trên đất này đã thế rồi!

*

Xem chèo cổ, thấy rõ cái tính “như nước”.

Chèo là nghệ thuật sân khấu. Trần Ngọc Thêm thấy sân khấu chèo có “tính linh hoạt”, vì diễn viên không nhất thiết theo sát bài bản của tích diễn và vì người xem có thể tham gia!(11)

Chèo có múa. Múa chèo có phong cách riêng. Chẳng hạn trong Lưu Bình Dương Lễ, đoạn Châu Long và Lưu Bình gặp nhau ở quán “đề thơ”: thoạt tiên kẻ xôn xao lượn quanh người e ấp như bướm vờn hoa, cuối cùng hoa và bướm quấn quít dập dìu như chim liền cánh (tuy thực ra bàn tay vẫn chưa chạm bàn tay)… Diễn viên chèo thậm chí chẳng cần chuyển đến thân mình, chỉ một cổ tay xoay tròn cũng đủ gợi bao nhiêu tình, ý. Cái múa truyền thống ta nó mềm mại, dẻo dang, nhẹ nhàng, bay bướm…

*

Chiếc áo dài Việt Nam từng đăng quang trong một cuộc thi trang phục thế giới tổ chức bên Nhật. Nó có phong cách ngược hẳn với trang phục nữ Nhật truyền thống. Trông một phụ nữ Nhật vận kimono mấy lớp vải bước đi từng bước ngắn, tai ta tưởng nghe được tiếng sột soạt. Trong khi ngắm một cô gái Việt Nam mặc áo dài mỏng manh bước vừa phải khoan thai, có người bảo trông thấy ngay được... gió! Một người khác nhận xét thứ “áo gió” của ta khiến sự xê dịch bình thường trở nên “thanh thoát”, “linh động phơi phới”. Một người nữa nói: “Tôi nhận ra chiếc áo dài Việt Nam tạo ra được những đường nét mà không có y phục nào có được”.(12)

Trang phục Việt Nam mềm mại, sống động, như tiếng Việt, như thơ lục bát, như kiểu dáng và hoa văn đồ gốm, như tượng Phật, như chèo...

*

Trần Văn Khê bảo “người Việt Nam khi đờn phải nhấn nhá”. Nhấn nhá làm mềm âm thanh. Mềm có khi tới mức rưng rưng, như “giọt” đàn bầu. “Một dây nũng nịu đủ lời, nửa bầu chứa cả một trời âm giai”!(13)

Ta không chỉ nhấn nhá khi đàn thứ đàn riêng của mình. Trần Văn Khê cho biết đàn koto của Nhật và đàn tranh của ta đều phỏng theo đàn Trung Quốc, nhưng phát triển theo hai hướng khác nhau. Thủ pháp koto chú trọng bàn tay phải, bàn tay sinh ra âm thanh; trong khi thủ pháp tranh lại đặc biệt phong phú và tinh vi nơi bàn tay trái, bàn tay “nuôi dưỡng và làm đẹp âm thanh”. Khi đàn tranh, “tay mặt sanh ra cái xác, tay trái tạo ra cái hồn (...) về bàn tay trái, chúng tôi có rung, nhấn, mổ (...) có rung lơi, rung nhặt (...) nhấn nửa bậc, một bậc, một bậc rưỡi, hai bậc, hai bậc rưỡi, lại có nhấn vuốt, nhấn rung, nhấn mổ, nhấn khảy, nhấn mượn hơi (...) mổ đơn, mổ kép, mổ kềm dây”. Tranh vốn không mềm, nhưng tranh về với Việt rồi tranh cũng hóa mềm.

*

Việt tính thành hình lâu lắm rồi. Mà xưa kia chắc người ta đã thấy nó khắp Hoa Nam chứ không phải chỉ ở châu thổ Bắc bộ. Cái tính “như nước” ấy từng làm được chuyện rất oanh liệt.

Bàn về mỹ thuật cổ Trung Quốc, Thái Bá Vân nhắc thứ “hình học phi lý, khúc mắc như thách đố (...) của đồ đồng Thương, Chu” và nhắc “tính tuyệt đối của tinh thần Trung Hoa”.

Nguyễn Hiến Lê có lần nhận xét: “Về mỹ thuật (...) Trung Hoa có đặc điểm này: tiết chế, điều hòa”.(14) Không thấy nêu khung thời gian, nhưng căn cứ vào chữ dùng, hẳn đây nói về thời sau khi Nho giáo đã thịnh hành.

Tại sao mỹ thuật Trung Quốc chuyển biến từ cực đoan qua tiết chế?

Thiết tưởng chuyện xảy ra là: Từ đất gốc ở Hoa Bắc, người Hoa liên tục bành trướng về phía Nam. Ðất phương Nam không hề “trống”, mà là đất của một chủng tộc có thứ văn hóa riêng đặc biệt mềm mại. Tuy thua trận, mất quyền cai trị, chủng tộc ấy đã “pha” được văn hóa mình vào văn hóa của kẻ thắng trận, khiến ở Hoa Nam dần dần xuất hiện một thứ văn hóa lai nửa Hoa nửa Việt, nửa cứng nửa mềm. Văn hóa lai rồi lan ngược lên, dần dần thay đổi văn hóa Hoa Bắc. Khi Khổng Tử sinh ra thì ở Hoa Bắc cái tinh thần tuyệt đối đã cơ bản mất rồi, nên Khổng mới dạy đạo trung dung...

(Thực ra, thày Khổng dạy vậy, chứ xem những thứ người Tàu làm ra, xét những việc họ làm, thấy lâu sau ngày Thày qua đời họ cũng chưa chịu bỏ hẳn cái nết “tuyệt đối” của tổ tiên Hoa xưa kia.)

*

Tình hình Việt Nam thời Bắc thuộc khác tình hình đất Việt tộc ở phía bắc sau khi trở thành Hoa Nam. Người Hoa không xuống ở Việt Nam đông đảo như bên Hoa Nam. Nhờ đó, tổ tiên ta giữ được phần lớn Việt tính nguyên thủy. Cụ thể, xưa kia tổ tiên “mất nước còn làng”, tuy nước “thuộc Bắc” nhưng dân vẫn tiếp tục ở trong “làng Nam” và sinh hoạt chủ yếu vẫn như thời chưa thuộc. Hoa hóa chỉ xảy ra hạn chế thông qua Hoa quân chiếm đóng và một ít Hoa kiều.

Bây giờ ta còn nước mất làng. Chưa mất hẳn, nhưng ở rất nhiều nơi làng hoặc đã bị đô thị phềnh nuốt, hoặc đã hóa thành y như đô thị. Đô thị ta na ná như đô thị Tây chứ chưa có phong cách riêng. Ở như Tây, thêm sinh hoạt cũng đang Tây hóa, Việt tính làm sao khỏi mất? Lại còn chuyện ngay trước mắt là tâm lý tự ti do đang thua Tây về vật chất kết hợp với hình ảnh Tây phương hào nhoáng xui đông đảo dân ta đua nhau bắt chước Tây đến tận “cái tóc”. Tây đang đồng hóa ta rất kịch liệt mặc dù quân Tây không qua đóng, dân Tây không qua ở!

Tính Tây cứng hơn cả tính Hoa. Say sưa bắt chước cái nọ cái kia, chuyện nọ chuyện kia, mấy chốc trông lại thấy cái tính cái nết mình cũng y như tính nết Tây, chẳng còn “như nước” chút nào!



Thu Tứ
Viết năm 2003
Sửa mới nhất 12-2022












__________
(1) ĐDA,
Việt Nam văn hóa sử cương, 1938, nxb. TPHCM tái bản năm 1992.
(2) CXH,
Tư tưởng phương Đông – gợi những điểm nhìn tham chiếu, nxb. Văn Học, 1995.
(3) TÐ, “Mối cảm tưởng về thơ ca của nước ta”,
An Nam tạp chí, 1932, in lại trong Tuyển tập Tản Đà, nxb. Hội Nhà Văn, 2002.
(4) Cao Xuân Hạo,
Tiếng Việt, văn Việt, người Việt, nxb. Trẻ, 2001.
(5) Theo Nguyễn Xuân Kính trong
Thi pháp ca dao, nxb. Khoa Học Xã Hội, 1992.
(6) XD,
Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I, nxb. Văn Học, 1987.
(7) TBV,
Tiếp xúc với nghệ thuật, Viện Mỹ thuật Việt Nam, 1997.
(8) CQT,
Văn hóa Việt Nam nhìn từ mỹ thuật, nxb. Mỹ Thuật, 2002.
(9) BNL,
Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Sài Gòn, 1971.
(10) Trong
Lịch sử Việt Nam, tập I, nxb. Đại Học Và Trung Học Chuyên Nghiệp, 1983.
(11) TNT,
Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, nxb. TPHCM, 2001.
(12) Ba người này là: nhiếp ảnh gia Nguyễn Cao Đàm, nhà văn Võ Phiến, họa sĩ Thái Tuấn.
(13) TVK,
Hồi ký, nxb. Trẻ, 2001. Hai câu thơ là của Văn Tiến Lê.
(14) NHL,
Lịch sử thế giới, nxb. Văn Nghệ, Mỹ, 1994.