“Đoàn Văn Cừ - Thơ vẽ cảnh quê”




Về việc làm thơ, Huy Cận bảo: “Nội dung quyết định hình thức”.(1) Nội dung thơ Đoàn Văn Cừ cũ ơi là cũ, sao nó lại thường chọn hình thức tám chữ hay bảy chữ của thơ Mới?

Nhớ Hoài Thanh. Trong Thi nhân Việt Nam, ông xem xét kỹ các lối thơ Mới rồi kết luận rất đúng rằng đó chẳng qua “là những lối thơ xưa phục hưng (...) biến thể ít nhiều”. À, thì ra do hình thức thơ Mới tuy mới mà cũ, mà các nhà thơ có thể dùng để diễn nội dung cũ.

Nhìn rộng hơn văn học, những “Chợ Tết”, “Đám hội”, “Ðám cưới mùa xuân” v.v. là như thế nào nhỉ? Thiết tưởng có thể xem chúng như những cái bóng mà quê Việt nghìn năm đã in lên một tâm hồn thi sĩ để con cháu mai sau tha hồ ngắm nghía. Quê thôi rồi, nhưng vẻ đẹp mộc mạc và bình dị của quê vẫn còn thấy được qua những câu thơ tuy hình thức “Mới” mà vẫn rất đỗi “chân quê”…

Tết và hội và xuân… Làm sao quên Nguyễn Bính! Thơ Nguyễn Bính và thơ Ðoàn Văn Cừ bổ túc nhau, chứ không có “trùng” đâu. Một đằng “chuyên trị” tâm tình những trai quê, gái quê. Một đằng bao quát cảnh quê...

“Chợ Tết”

“Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi / Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà tranh / Trên con đường viền trắng mép đồi xanh / Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết / Họ vui vẻ kéo hàng trên cỏ biếc / Những thằng cu áo đỏ chạy lon xon / Vài cụ già chống gậy bước lom khom / Cô yếm thắm che môi cười lặng lẽ / Thằng em bé nép đầu bên yếm mẹ / Hai người thôn gánh lợn chạy đi đầu / Con bò vàng ngộ nghĩnh đuổi theo sau / Sương trắng dỏ đầu cành như giọt sữa / Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa / Núi uốn mình trong chiếc áo the xanh / Ðồi thoa son nằm dưới ánh bình minh / Người mua bán ra vào đầy cổng chợ / Con trâu đứng vờ dim hai mắt ngủ / Ðể lắng nghe người khách nói bô bô (…) / Bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ / Nước thời gian gội tóc trắng phau phau (…) / Những mẹt cam đỏ chót tựa son pha / Thúng gạo nếp đong đầy như núi tuyết (…) / Những người quê lũ lượt trở ra về / Ánh dương vàng trên cỏ kéo lê thê / Lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ”.

Nhà thơ chơi màu thấy mà mê! Màu xanh đỏ tím vàng hồng lam đen trắng phấp phới trong thơ y như trong chính một cái chợ Tết! Hoài Thanh bảo Ðoàn Văn Cừ “nhận xét rất tinh” và có “hồn thơ phong phú”. Hẳn rồi, nhưng tưởng trước tiên là có một tấm lòng yêu quê thắm thiết. Không yêu lắm lắm, chắc không thấy những “tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa”, “con trâu đứng vờ dim hai mắt ngủ” v.v. đâu, có lẽ cũng không tưởng tượng ra được thứ “nước thời gian” “gội tóc (bà cụ lão) trắng phau phau”… Năm 1941, Hoài Thanh viết “những hình ảnh cuộc đời Việt Nam xưa còn lưu lại trong thời nay chẳng bao lâu sẽ mất hết”. Năm 2015 quê đã “mất hết”, vậy mà qua những vần “Chợ Tết” thấy như ngay trước mắt đang có “những người quê lũ lượt trở ra về” và bao nhiêu là “lá đa rụng tơi bời quanh quán chợ”…

“Đám cưới mùa xuân”

“Ngày ửng hồng sau màn sương gấm mỏng / Nắng dát vàng trên bãi cỏ non xanh / Dịp cầu xa lồng bóng nước long lanh / Đàn cò trắng giăng hàng bay phấp phới (…) / Một cụ già râu tóc trắng như bông / Mặc áo đỏ, cầm hương đi trước đám / Dăm sáu cụ áo mền bông đỏ sẫm / Quần nâu hồng, chống gậy bước theo sau / Hàng ô đen thong thả tiến lên sau / Kế những chiếc mâm đồng che lụa đỏ (…) / Bà lão cúi lom khom bên cháu nhỏ / Túi đựng trầu chăm chăm giữ trong tay / Thằng bé em mẹ ẵm, má hây hây / Đầu cạo nhẵn, áo vàng, quần nâu sẫm (…) / Người cô dâu hôm nay coi choáng lộn / Vành khuyên vàng, áo mớ, nón quai thao / Các cô bạn bằng tuổi cũng xinh sao / Hai má thắm, ngây thơ nhìn trời biếc / Dăm bảy cô phủ mình trong những chiếc / Áo đồng lầm, yếm đỏ, thắt lưng xanh / Một lúc sau đi tới chỗ vòng quanh / Nếp chùa trắng in hình trên trời thắm / Thì cả bọn dần dần cùng khuất lẩn / Sau trái đồi lấp lánh ánh sương ngân / Chỉ còn nghe văng vẳng tiếng chim xuân / Ca ánh ỏi trên cành xanh tắm nắng”.

Ðã mùa xuân, lại đám cưới, màu sắc được dịp khoe! Trang phục truyền thống Việt Nam có hai lối màu. Khi làm lụng, ta mặc nâu, thâm, chan hòa với đất. Khi “ăn chơi”, ta mặc những màu rực rỡ, nổi bật trên đất. Cả hai lối nay đã “khuất lẩn sau trái đồi lấp lánh ánh sương ngân”. Giờ ta chỉ còn được nghe “những màu muôn năm cũ”(2) trong những bài thơ cũng đã cũ muôn năm!

“Bình minh”

“Chân trời loé đỏ bóng vừng ô / Lúa biếc mênh mông chảy lụt bờ / Sương đọng ngọc trên tàu trúc nõn / Cồn xa chim gáy cúc... cu... cu... / Ánh sáng tuôn trên những lá chè / Những đường thôn trắng, những bờ tre / Ông đồ bảo học bên hàng xóm / Tiếng giảng chen trong giọng chích choè”.

Mặt trời lên như đám cháy, lúa mênh mông dập dờn, dào dạt, “ngọc sương” treo lấp lánh đầu nõn trúc, chim chích chòe chim... ông đồ đua nhau hót, bình minh!

“Đường về quê mẹ”

“U tôi ngày ấy mỗi mùa xuân / Dặm liễu mây bay sắc trắng ngần / Lại dẫn chúng tôi về nhận họ / Bên miền quê ngoại của hai thân / Tôi nhớ đi qua những rặng đề / Những dòng sông trắng lượn ven đê / Cồn xanh, bãi tía kề liên tiếp / Người xới cà, ngô rộn bốn bề / Thúng cắp bên hông, nón đội đầu / Khuyên vàng, yếm thắm, áo the nâu / Trông u chẳng khác thời con gái / Mắt sáng, môi hồng, má đỏ au / Chiều mát, đường xa nắng nhạt vàng / Đoàn người về ấp gánh khoai lang / Trời xanh cò trắng bay từng lớp / Xóm chợ lều phơi xác lá bàng / Tà áo nâu in giữa cánh đồng / Gió chiều cuốn bụi bốc sau lưng / Bóng u hay bóng người thôn nữ / Cúi nón mang đi cặp má hồng / Tới đường làng gặp những người quen / Ai cũng khen u nết thảo hiền / Dẫu phải theo chồng thân phận gái / Đường về quê mẹ vẫn không quên”.

Tưởng tượng một phụ nữ “khuyên vàng, yếm thắm, áo nâu, môi hồng, má đỏ” bước dưới trời có mây trắng ngần, bước trên bờ con sông trắng có cồn xanh bãi tía... Người ấy có lẽ đi từ sáng tinh mơ, thế mà mãi khi “nắng nhạt vàng”, “trời xanh cò trắng bay từng lớp”, thì mới đến. Nhờ người ấy có dắt theo Ðoàn Văn Cừ, mà nay những người yêu thơ cũng được “bước” trên một thứ “đường về quê mẹ”!

“Ngày xuân chơi đồng quê”

“Ngày xuân rạng, vàng son lồng mặt nước / Trời thêu mây, núi tím nắng phun hường / Cây xanh rờn sương nạm ngọc kim cương / Dòng nước biếc lượn như dòng ngọc chảy / Ðàn chim sẻ nấp mình qua kẽ sậy / Tia nắng hồng đốt cháy hạt sương trong / Ðám mây vàng lơ lửng lướt trên không / Bóng trôi xuống dòng nước trong sâu thẳm / Vài tia khói trên nóc nhà nâu xám / Như những đường phấn trắng tỏa liu điu / Trên đồng xanh vài ngọn tháp chuông cao / Bóng nổi rõ trên nền trời hồng nhạt / Ngôi miếu nhỏ bên đường hương khói lạt / Như bức tường văn hóa bị tàn vong / Con trâu đen chúi mũi đứng bên đồng / Cứ liếm mãi nắng vàng trên cỏ biếc (…) / Ðây, cây đề tán rợp bóng rung rinh / Nắng len lỏi tìm chim trong kẽ lá / Kia, rải rác bên chùa dăm tấm đá / Dấu thời gian còn lại vết rêu mờ / Dưới chân đồi, trong những ruộng trồng dưa / Qua khe lá hoa vàng chen lấm tấm / Những cồn (?) mía lá non, mình tía sẫm / Vạch lên trời một nét uốn thanh thanh / Vài ba cô yếm đậu, thắt lưng xanh / Giơ gáo dội trong những vườn cải biếc (…) / Từ đàng xa văng vẳng tiếng chim cu / Làm sóng sánh cả bầu không khí biếc / Vài chiếc quán bên đường che cánh liếp / Khói đầu nhà theo gió uốn mình bay... / Ngày chiều về, vàng tía rộn chân mây / Trăng sao bạc thêu màn trời gấm đỏ / Hơi lam tím phủ mờ trên lá cỏ / Một đàn bò thấp thoáng bước trong sương (…)”.

Ngày xuân bắt đầu “vàng son lồng mặt nước”. Ngày xuân hết “vàng tía rộn chân mây”. Ðồng quê lộng lẫy từ sáng tới chiều như thế, đi chơi là phải lắm. Như thường lệ, Ðoàn Văn Cừ nhìn đâu thấy màu đó, bài thơ 47 câu chứa đến gần 30 từ chỉ màu! Có màu “nóng” như lửa: “Tia nắng hồng đốt cháy hạt sương trong”! Có màu “ngon”, bị trâu liếm: “Cứ liếm mãi nắng vàng trên cỏ biếc”! Trâu liếm nắng, còn nắng thì “len lỏi tìm chim trong kẽ lá”! Có chim chơi trốn tìm với nắng, lại có chim gù “làm sóng sánh cả bầu không khí biếc”! Trong bức tranh quê truyền thống lần này có lẫn vào một nét bất thường, là “vài ngọn tháp chuông cao”. Ðoàn Văn Cừ quê Nam Ðịnh nơi về phía biển có nhiều nhà thờ, hẳn ông đã đi chơi nhằm khu bên giáo. Trông tháp sừng sững, rồi trông “ngôi miếu nhỏ bên đường hương khói lạt”, ông chạnh lòng, thấy nó “như bức tường văn hóa bị tàn vong”... MẸ ơi, con yêu và thương mẹ biết làm bao nhiêu thơ cho xiết!

“Đám hội”

“Mùa xuân ấy, ông tôi lên tận tỉnh / Đón tôi về xem hội ở làng bên / Suốt ngày đêm chuông trống đánh vang rền / Người lớn bé, mê man về hát bội / Những thằng cu tha hồ khoe áo mới / Và tha hồ nô nức kéo đi xem / Các cụ già uống rượu mãi gần đêm / Tổ tôm điếm chơi đều không biết chán / Những con bé áo xanh đòi chị ẵm / Để đi theo đám rước lượn quanh làng / Các bà đồng khăn đỏ chạy loăng quăng / Đón các khách thập phương về dự hội / Một chiếc kiệu đương đi dừng bước lại / Rồi thình lình quay tít mãi như bay / Một bà già kính cẩn chắp hai tay / Đứng vái mãi theo đám người bí mật / Trên bãi cỏ dưới trời xuân bát ngát / Một chị đương đu ngửa tít trên không / Cụ lý già đứng lại ngửng đầu trông / Mắt hấp háy nhìn qua đôi mục kỉnh (…) / Đoàn trải dài vùn vụt giữa dòng sông / Người lố nhố chèo trên làn nước lạnh / Bọn đô vật trước đình thi sức mạnh / Mình cởi trần gân cốt nổi như lươn / Tiếng reo hò khuyến khích dậy từng cơn / Lẫn tiếng trống bên đường khua rộn rã / Bên mấy chiếc khăn vuông hình mỏ quạ (…) / Bọn trai quê bá cổ cạnh cô hàng / Vờ mua bán để tìm câu chuyện gẫu (…) / Tiếng chiêng trống chen từng hồi lặng lẽ / Những bóng người trịnh trọng khẽ đi lên / Những cánh tay áo thụng vái mơ huyền / Đang diễn lại cả một thời quá khứ (…) / Người đi xem nhiều bọn đã ra về / Trên đường vắng lá đề rơi lác đác / Ốc xa rúc từng hồi trong xóm mạc / Trời đỏ hồng sau những trái đồi xanh / Đàn chim hôm nhớn nhác gọi trên cành (…) / Lẫn trống chèo văng vẳng phía làng xa / Của đám dân nô nức dưới trăng tà…”.

“Người lớn bé, mê man về đám hội”! Người bé mê hội lối bé: “thằng cu (...) khoe áo mới”, “con bé (...) đòi chị ẵm (...) theo đám rước lượn quanh làng”, “thằng bé em đòi mẹ bế lên đền (…) xem các cụ”... Người lớn mê lối lớn: hội có đủ thứ trò vui cho cả già lẫn trẻ, nhưng trai gái đương độ thì bao giờ cũng say nhất cái trò tự tổ chức là tán và được tán. Tất nhiên không phải chỉ trai trẻ mới ưa gái trẻ: cụ lý già đi qua bãi cỏ thấy “một chị đương đu ngửa tít trên không”, bèn “đứng lại ngửng đầu trông”, “mắt hấp háy nhìn qua đôi mục kỉnh”… Các cụ ông thích xem đu thì cứ việc xem, các cụ bà còn mãi bận xem kiệu, vái kiệu: “Một chiếc kiệu đương đi dừng bước lại / Rồi thình lình quay tít mãi như bay…” Kiệu mà biết bay, “bí mật” thật, đáng vái thật! Hội làng lắm trò vui ơi, lại không lo sẽ lặn mất theo mặt trời. Kìa đã “trống chèo văng vẳng”, đến giờ... Nguyễn Bính!

“Trăng hè”

“Tiếng võng trong nhà kẽo kẹt đưa / Đầu thềm con chó ngủ lơ mơ / Bóng cây lơi lả bên hàng dậu / Đêm vắng, người im, cảnh lặng tờ / Ông lão nằm chơi ở giữa sân / Tàu cau lấp loáng ánh trăng ngân / Thằng cu đứng vịn bên thành chõng / Ngắm bóng con mèo quyện dưới chân / Bên giếng, dăm cô gái xứ quê / Từng đàn vui vẻ rủ nhau về / Trên vai nặng trĩu đôi thùng nước / Kĩu kịt đi vào lối cổng tre / Trong xóm giờ lâu quá nửa đêm / Tiếng chày giã gạo đã ngừng im / Trăng tà hạ xuống ngang đầu núi / Đom đóm bay qua dải nước đen / Tiếng ốc trên chòi rúc thiết tha / Gió lay cót két rặng tre già / Sao trời từng chiếc rơi thành lệ / Sương khói bên đồng ủ bóng mơ”.

Ðã quen ngắm những bức tranh quê đầy màu sắc của Ðoàn Văn Cừ, đọc đến “Trăng hè” ta hơi ngẩn ngơ: nó đấy sao, cái nơi chốn mới cách đây mấy tiếng đồng hồ hãy còn rực rỡ… “Ðêm vắng, người im, cảnh lặng tờ”. Vắng là vắng người, chứ đêm trăng thì đông đảo bóng (trẻ con chết khiếp!). Lặng là lặng tiếng người, chứ đêm quê thì đêm nào cũng đầy tiếng của những loài không phải người! “Sao trời từng chiếc rơi thành lệ / Sương khói bên đồng ủ bóng mơ”. Thức khuya để thấy “lệ sao” với “bóng mơ”, thật đáng thức quá!



Thu Tứ
Viết năm 2011
Sửa tháng 11-2015

















_________
(1) Trong phụ trương Thơ của báo
Văn Nghệ, tháng 3-2005.
(2) Bài “Ông đồ” của Vũ Ðình Liên: “… Những người muôn năm cũ / Hồn ở đâu bây giờ”.