“Nguyễn Gia Thiều - Cung oán ngâm khúc




Trong thơ nôm có hai khúc ngâm đặc biệt giá trị là Cung oánChinh phụ. Hiện nay vẫn chưa có đủ chứng cứ để khẳng định tác phẩm nào ra đời trước. Cung oán do Nguyễn Gia Thiều (1741-1798) viết bằng chữ nôm; Chinh phụ thì được diễn nôm từ nguyên tác Hán văn của Ðặng Trần Côn. Nếu người diễn nôm là Ðoàn Thị Ðiểm (1705-1748) thì chắc chắn Chinh phụ viết trước Cung oán. Còn nếu người ấy là Phan Huy Ích (1751-1822) thì có lẽ Cung oán viết trước Chinh phụ.

Tại sao Nguyễn Gia Thiều và Đoàn Thị Điểm hay Phan Huy Ích cùng chọn thể song thất lục bát? Chắc vì cả hai tác phẩm đều có nội dung là một tâm trạng, mà để diễn tâm trạng thì thể thơ này thích hợp nhất.

Có phải Cung oán không nổi tiếng bằng Chinh phụ? Chúng tôi cho rằng hai thi phẩm này hay ngang nhau, do đó độ chênh lệch tiếng tăm nếu có hẳn là do khác biệt về nội dung. Cung oán chứa tâm trạng buồn oán tuyệt vọng của một cung nữ thất sủng. Hình như làm cung nữ phải quậy thật ác như Ðắc Kỷ, Bao Tự, Dương Quý Phi, Đặng Thị Huệ v.v. mới được số đông chú ý, chứ âm thầm khổ sở như nhân vật của Nguyễn Gia Thiều thì chẳng mấy ai quan tâm. Chinh phụ cũng chứa một nỗi buồn, nhưng đây là buồn nhớ, song song với mong với hy vọng. Vì tâm trạng người vợ có chồng chinh chiến được chia sẻ rộng rãi, Chinh phụ có ưu thế trong việc phổ biến.

Khác biệt như vừa nói, nhưng nội dung hai khúc ngâm cũng có chỗ tương đồng. Như có người đã nhận xét, trong Cung oánChinh phụ, “… tình cảm cá nhân lên tiếng một cách thắm đậm”.(1) Đây là một đặc tính chung của thơ nôm nho sĩ Việt Nam bắt đầu từ thế kỷ 18.

Về văn chương, phong cách của hai khúc ngâm đem so với nhau thấy ra sao? Vẫn nhà nghiên cứu trên: (một đằng) nhẹ nhàng trong sáng (một đằng) màu sắc tối, giọng điệu gắt”. Đúng lắm. Thơ hay thì lời là hiện thân trung thực của tứ. Lời Chinh phụ phải thế mới “trung” với cái tâm trạng buồn nhớ mong hy vọng, trong khi lời Cung oán phải thế mới “trung” với cái buồn oán tuyệt vọng. Hai tác phẩm tiêu biểu của một thể thơ dân tộc mang hai phong cách khác nhau như âm với dương, sự tình cờ có khi thật khéo!

Suốt nhiều thế kỷ, bất chấp đa số trí thức Việt trọng Hán khinh Nôm, văn chương Nôm vẫn phát triển mạnh mẽ để đến thế kỷ 18 thì bắt đầu “kết quả”. Cung oánChinh phụ đều rất đỗi già dặn, tài tình, là cặp “quả” ngon tuyệt vời báo trước “Mùa cổ điển” vô cùng rực rỡ trong lịch sử thi ca Việt Nam.

Cuối cùng, có điều này nghĩ cũng ngộ. Cái tâm sự người cung nữ mất lòng yêu của vua bên Trung Quốc chỉ hiện ra thành mấy bài thơ ngắn, chẳng hạn bài “Hậu cung từ” của Bạch Cư Dị. Tại sao bên ta vua chúa không lắm cung nữ như bên Tàu, mà lại có thơ trường thiên? Như mọi người biết, Cung oán ngoài nội dung nổi thành tên tác phẩm còn chứa một nội dung chìm là tâm sự của chính tác giả. Hẳn cái nội dung thứ hai nó đã góp phần quan trọng làm cho lời “oán” ta dài hơn hẳn các lời “oán” Tàu.

Sau đây chúng tôi xin đọc Cung oán ngâm khúc. Việc chia thành mười một đoạn là theo cảm nhận riêng.

Tóm tắt tâm trạng người cung nữ (câu 1-8)

“Trải vách quế gió vàng hiu hắt / Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng / Oán chi những khách tiêu phòng / Mà xui phận bạc nằm trong má đào / Duyên đã may cớ sao lại rủi / Nghĩ nguồn cơn dở dói sao đang / Vì đâu nên nỗi dở dang / Nghĩ mình mình lại thêm thương nỗi mình”.

Cái câu chót dĩ nhiên làm nhớ Kiều: “Giật mình, mình lại thương mình xót xa”. Làm đĩ thì tệ hơn làm cung nữ bị thất sủng nhiều chứ. Nhưng làm cung nữ chẳng thà không được “sủng” lần nào chứ đã có được “sủng” nhiều lần khiến chứa chan hy vọng sẽ thành vương phi, hoàng hậu, rồi bỗng hy vọng bị tắt ngóm, cái “nỗi dở dang” ấy nó cũng có xứng được đem ra ngâm nga cho đáng nên ngâm thật!

Tả tài sắc người cung nữ khi xưa (câu 9-44)

“Trộm nhớ thủa gây hình tạo hóa / Vẻ phù dung một đóa khoe tươi / Nhụy hoa chưa mỉm miệng cười / Gấm nàng Ban đã nhạt mùi thu dung / Áng Ðào Kiển đâm bông não chúng / Khóe thu ba dợn sóng khuynh thành / Bóng gương lấp loáng dưới mành / Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa! / Chìm đáy nước, cá lờ đờ lặn / Lửng da trời, nhạn ngẩn ngơ sa / Hương trời đắm nguyệt say hoa / Tây Thi mất vía Hằng Nga giật mình / (...) / Tài sắc đã vang lừng trong nước / Bướm ong càng xao xác ngoài hiên / Tai nghe nhưng mắt chưa nhìn / Bệnh Tề Tuyên đã nổi lên đùng đùng / Hoa xuân nọ, còn phong nộn nhụy / Nguyệt thu kia, chưa hé hàn quang / Hồng lâu còn khóa then sương / Thâm khuê còn giấm mùi hương khuynh thành / Làng cung kiếm rắp ranh bắn sẻ / Khách công hầu gấm ghé mong sao / Vườn xuân bướm hãy còn rào / Thấy hoa mà chẳng lối vào tìm hương / Gan chẳng đá khôn đường há chuyển / Mặt phàm kia dễ đến Thiên Thai / Hương trời sá động trần ai / Dẫu vàng nghìn lạng dễ cười một khi”.

Người đâu mà đẹp thế! Ðến nỗi cá chìm chim rụng, hoa ngẩn trăng ngơ, người đẹp khác ghen phát sốt. Ðẹp mà không tượng, mà vô cùng gợi cảm, đến nỗi chẳng những mới nghe tin gió, bướm ong đã đùng đùng phát bệnh... dê, mà ngay cả “cỏ cây cũng muốn...”! Đẹp vô cùng, tài cũng vô cùng (ngoài cầm kỳ thi họa, còn giỏi cả tửu!)! “Tài sắc đã…”, nhưng vẫn còn được hai đấng sinh thành “giấm” rất kỹ trong buồng the thăm thẳm. Bao khách công hầu gấm ghé, hoàn toàn vô ích nhé. Bởi “mùi hương khuynh thành” đã bay tận mũi một người có rất nhiều thành...

Trình bày triết nhân sinh (c. 45-132)

“Ngẫm nhân sự cớ chi ra thế / Sợi xích thằng chi để vướng chân / Vắt tay nằm nghĩ cơ trần / Nước dương muốn rảy nguội dần lửa duyên / Kìa thế cục như in giấc mộng / Máy huyền vi mở đóng khôn lường / Vẻ chi ăn uống sự thường / Cũng còn tiền định khá thương lọ là / Ðòi những kẻ thiên ma bách chiết / Hình thì còn bụng chết đòi nau / Thảo nào khi mới chôn nhau / Ðã mang tiếng khóc bưng đầu mà ra / Khóc vì nỗi thiết tha sự thế / Ai bày trò bãi bể nương dâu / Trắng răng đến thủa bạc đầu / Tử sinh kinh cụ làm nau mấy lần? / Cuộc thành bại hầu cằn mái tóc / Lớp cùng thông như đốt buồng gan / Bệnh trần đòi đoạn tâm can / Lửa cơ đốt ruột dao hàn cắt da / Gót danh lợi bùn pha sắc xám / Mặt phong trần nắng nám mùi dâu / Nghĩ thân phù thế mà đau / Bọt trong bể khổ bèo đầu bến mê / Mùi tục vị lưỡi tê tân khổ / Ðường thế đồ gót rỗ khi khu / Sóng cồn cửa bể nhấp nhô / Chiếc thuyền bào ảnh lô xô gập ghềnh / Trẻ tạo hóa đành hanh quá ngán / Chết đuối người trên cạn mà chơi / Lò cừ nung nấu sự đời / Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương / Ðền vũ tạ nhện giăng cửa mốc / Thú ca lâu dế khóc canh dài / Ðất bằng bỗng rấp chông gai / Ai đem nhân ảnh nhuốm mùi tà dương / Mùi phú quí nhử làng xa mã / Bả vinh hoa lừa gã công khanh / Giấc Nam Kha khéo bất tình / Bừng con mắt dậy thấy mình tay không / Sân đào lý giâm lồng man mác / Nền đỉnh chung nguyệt gác mơ màng / Cánh buồm bể hoạn mênh mang / Cái phong ba khéo cợt phường lợi danh / Quyền họa phúc trời tranh mất cả / Chút tiện nghi chẳng trả phần ai / Cái quay búng sẵn trên trời / Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm / Hình mộc thạch vàng kim ố cổ / Sắc cầm ngư ủ vũ ê phong / Tiêu điều nhân sự đã xong / Sơn hà cũng huyễn côn trùng cũng hư / Cầu thệ thủy ngồi trơ cổ độ / Quán thu phong đứng rũ tà huy / Phong trần đến cả sơn khê / Tang thương đến cả hoa kia cỏ này / Tuồng huyễn hóa đã bày ra đấy / Kiếp phù sinh trông thấy mà đau / Trăm năm còn có gì đâu / Chẳng qua một nắm cổ khâu xanh rì / Mùi tục lụy dường kia cay đắng / Vui chi mà đeo đẳng trần duyên / Cái gương nhân sự chiền chiền / Liệu thân này với cơ thiền phải nao / Thà mượn thú tiêu dao cửa Phật / Mối thất tình quyết dứt cho xong / Ða mang chi nữa đèo bòng / Vui gì thế sự mà mong nhân tình / Lấy gió mát trăng thanh kết nghĩa / Mượn hoa đàm đuốc tuệ làm duyên / Thoát trần một gót thiên nhiên / Cái thân ngoại vật là tiên trong đời / Ý cũng rắp ra ngoài đào chú / Quyết lộn vòng phu phụ cho cam / Ai ngờ trời chẳng cho làm / Quyết đem dây thắm mà giam bông đào / Hẳn túc trái làm sao đây tá / Hay tiền nhân hậu quả xưa kia / Hay Thiên cung có điều gì / Xuống trần mà trả nợ đi cho rồi / Kìa điểu thú là loài vạn vật / Dẫu vô tri cũng bắt đèo bòng / Có âm dương có vợ chồng / Dẫu từ thiên địa cũng vòng phu thê / Ðường tác hợp trời kia giong ruổi / Lọt làm sao cho khỏi nhân tình / Thôi thôi ngảnh mặt làm thinh / Thử xem con tạo gieo mình nơi nao?”.

Đoạn này dài 88 câu, gần một phần tư tác phẩm. Ô lạ chưa, đang trầm trồ giai nhân tài sắc bỗng dưng nhắc hoàn cảnh hoàn toàn không liên hệ (“cánh buồm bể hoạn mênh mang”), rồi triết lý nhân sinh to tát dằng dặc!? Hẳn khúc ngâm du dương não nuột có chứa cả tâm sự ai đó chứ không phải chỉ tâm trạng nhân vật... Thì còn ai nữa, ngoài chính tác giả! Tiểu sử Nguyễn Gia Thiều sơ lược nhưng cũng đủ cho ta biết tuy là cháu ngoại chúa Trịnh, khi còn chúa hoạn lộ của ông không được suông sẻ, rồi đến khi Tây Sơn ra Bắc thì trở nên hoàn toàn bế tắc vì ông không hợp tác. Rõ ràng đằng sau người cung nữ thất sủng có một ông quan thất thế, oán trách số phận. Chính nhờ có “quan oán” ẩn bên trong mà lời “Cung oán” mới nên đặc biệt thấm thía thế, cho hay có phải cứ hễ là con vua cháu chúa thì không đáng thương đâu! Có lẽ, lại chính nhờ đoạn này là đoạn “quan” diễn cái “oán” của mình mà giá trị văn chương ở đây cao hơn tất cả những đoạn khác trong khúc ngâm tuyệt tác. Gần chín chục câu triết lý sâu sắc mà đọc không thấy nặng nề, lời nối lời tự nhiên lưu loát, cầu kỳ mà không sáo rỗng, điêu luyện mà lại sáng tạo! Toàn thể tỏa ra một mùi “hương dâu bể” thật đậm đà được thăng hoa lên thành hương thiền. Tức là cũng như thường lệ, cái sự việc một tài năng văn chương thiên bẩm ngẫu nhiên “được” trải nghiệm đời sống ở chiều sâu nó đã có lợi cho văn học không biết bao nhiêu!

Kể cái đêm hạnh phúc đầu tiên (c. 133-148)

“Tay Nguyệt lão khờ sao có một / Bỗng tơ tình vướng gót cung phi / Cái đêm hôm ấy đêm gì / Bóng dương lồng bóng đồ my chập chùng / Khoa thược dược mơ mòng thụy vũ / Ðóa hải đường thức ngủ xuân tiêu / Cành xuân hoa chúm chím chào / Gió đông thôi đã cợt đào ghẹo mai / Xiêm nghê nọ tả tơi trước gió / Áo vũ kia lấp ló trông trăng / Sanh ca mấy khúc vang lừng / Cái thân Tây Tử lên chừng điện Tô / Ðệm hồng thúy thơm tho mùi xạ / Bóng bội hoàn lấp ló trăng thanh / Mây mưa mấy giọt chung tình / Ðình Trầm Hương khóa một cành mẫu đơn”.

Trong đoạn này, người ta hay nhắc hai câu “Cái đêm (…) / Bóng dương (...)”. Bóng lồng bóng, “bạo” thực. Nhưng đã thấm gì so với “Mây mưa mấy giọt (...)”! Chẳng những “dâm thư” cổ điển Trung Quốc như Tây Sương ký, Kim Bình Mai chữ nghĩa rụt rè hơn, ngay văn chương “hậu hiện đại” cũng không thường “giọt” kia “giọt” nọ... Dĩ nhiên chỉ bạo không thôi thì có gì là hay. Ðây thơ vừa bạo vừa hay.

Kể khi được vua sủng ái (c. 149-188)

“Tiếng thánh thót cung đàn thúy dịch / Giọng nỉ non ngón địch đan trì / Càng đàn càng địch càng mê / Càng gay gắt điệu càng tê tái lòng / Mày ngài lẫn mặt rồng lồ lộ / Sắp song song đôi lứa nhân duyên / Hoa thơm muôn đội ơn trên / Cam công mang tiếng thuyền quyên với đời / Trên chín bệ mặt trời gang tấc / Chữ xuân riêng sớm chực trưa chầu / Phải duyên hương lửa cùng nhau / Xe dê lọ rắc lá dâu mới vào / Khi ấp mận ôm đào gác nguyệt / Lúc cười sương cợt tuyết đền phong / Ðóa lê ngon mắt cửu trùng / Tuy mày điểm nhạt nhưng lòng cũng xiêu / Vẻ vưu vật trăm chiều chải chuốt / Lòng quân vương chi chút trên tay / Má hồng không thuốc mà say / Nước kia muốn đổ thành này muốn long! / (...) / Thôi cười nọ lại nhăn mày liễu / Ghẹo hoa kia lại nhíu gót sen / Thân này uốn éo vì duyên / Cũng cam một tiếng thuyền quyên với người / Lan mấy đóa lạc loài sơn dã / Uổng mùi hương vương giả lắm thay / Gẫm như cân trất duyên này / Cam công đặt cái khăn này tắc ơ / Tranh tỹ dực nhìn ưa chim nọ / Ðồ liên chi lần trỏ hoa kia / Chữ đồng lấy đó mà ghi / Mượn điều thất tịch mà thề bách niên”.

Ðã đẹp ơi là đẹp, lại còn chịu khó nín cười, “nhăn mày liễu”, “nhíu gót sen”, “uốn éo thân”, còn đàn địch nỉ non thánh thót nữa, thì bảo sao Chí Tôn khỏi “tê tái lòng”! “Ðóa lê ngon mắt cửu trùng” quá, nên “Cửu” đã cho “bóng dương lồng bóng đồ my” không biết mấy lần rồi. Lồng đi lồng lại, mà vẫn “không thuốc mà say”... Say rồi chỉ chim chỉ cây mà thề. Nhưng “má hồng” chớ khá cả tin lời của người được đều đều dâng lê mới!

Kể lúc bị thờ ơ rồi bị quên (c. 189-244)

“Hạt mưa đã lọt miền đài các / Những mừng thầm cá nước duyên may / Càng lâu càng lắm mùi hay / Cho cam công kẻ nhúng tay thùng chàm / Ai ngờ bỗng một năm một nhạt / Nguồn cơn kia chẳng tát mà vơi / Thôi đi đâu biết cơ trời / Bỗng không mà hóa ra người vị vong / (...) / Ngán thay cái én ba nghìn / Một cây Cù mộc biết chen cành nào / Song đã cậy má đào chon chót / Hẳn duyên tươi phận tốt hơn người / Nào hay con tạo trêu ngươi / Hang sâu chút hé mặt trời lại giâm / (...) / Lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ vũ / Gác thừa lương thức ngủ thu phong / Phòng tiêu lạnh ngắt như đồng / Gương loan bẻ nửa giải đồng xẻ đôi / Chiều ủ dột giấc mai trưa sớm / Vẻ bâng khuâng hồn bướm vẩn vơ / Thâm khuê vắng ngắt như tờ / Cửa châu gió lọt rèm ngà sương gieo / Ngấn phượng liễn chòm rêu lỗ chỗ / Dấu dương xa đám cỏ quanh co / Lầu Tần chiều nhạt vẻ thu / Gối loan tuyết đóng chăn cù giá đông / Ngày sáu khắc tin mong nhạn vắng / Ðêm năm canh tiếng lắng chuông rền / Lạnh lùng thay giấc cô miên / Mùi hương tịch mịch bóng đèn thâm u / Tranh biếng ngắm trong đồ Tố nữ / Mặt buồn trông trên cửa Nghiêm lâu / Một mình đứng tủi ngồi sầu / Ðã than với nguyệt lại rầu với hoa! / (...) / Ðêm năm canh lần nương vách quế / Cái buồn này ai dễ giết nhau / Giết nhau chẳng cái Lưu cầu / Giết nhau bằng cái ưu sầu độc chưa / (...)”.

Được “quân vương chi chút trên tay” cho hưởng đủ thứ “mùi”, “càng lâu càng lắm mùi hay”, người cung nữ chợt một hôm thấy mùi sủng ái hình như nhạt đi, rồi quả thật nhạt đi, rồi cứ thế nhạt thêm mãi... “Bóng dương” đã dời sang góc khác của ngự viên! Thoạt mất “soi”, “đóa lê” cố sức kéo “bóng” về, nhưng “cá no mồi cũng khó nhử lên”. Ở đằng kia “muôn hồng nghìn tía” mới mẻ lạ miệng, một miếng mồi ngon nhưng nhàm mong gì làm cá trở lại... Ðược nhiều thì mất nhiều. Mất nhiều thì oán trách nhiều: “Khoảnh làm chi bấy chúa xuân / Chơi hoa cho rữa nhụy dần lại thôi”, “Hoa này bướm nỡ thờ ơ / Ðể gầy bông thắm để xơ nhụy vàng”, thì cay đắng nhiều, đến mức muốn... đạp: “Tay Nguyệt lão chẳng xe thì chớ / Xe thế này có dở dang không / Ðang tay muốn dứt tơ hồng / Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra”! Khúc ngâm đoạn này lắm câu gần thuần nôm thật đích đáng.

Diễn tâm trạng buồn, oán (c. 245-284)

“Nào lối dạo vườn hoa năm ngoái / Ðóa hồng đào hái buổi còn xanh / Trên gác phượng dưới lầu oanh / Gối Du tiên hãy rành rành song song / (...) / Hoàng hôn thôi lại hôn hoàng / Nguyệt hoa thôi lại thêm buồn nguyệt hoa / (...)”.

Ðây kia, dấu vết được “cưng” hãy còn sờ sờ, thế mà người cưng nay mất tích, để người được cưng phải “cành hoa tàn nguyệt bực mình hoài xuân”. Bực thì trước trách chúa xuân: “Đông quân sao khéo bất tình”, sau “móc” đến cả Trời: “Hóa công sao khéo trêu ngươi”... Vừa bực, vừa sốt ruột, nhất là chiều tối: “Lửa hoàng hôn như cháy tấm son”. Vừa sốt ruột, lòng người cung nữ lại vừa vẫn nuôi một chút hy vọng. Một chút thôi, nhưng đủ làm tai nghe một đằng óc tưởng một nẻo: “khi trận gió lung lay cành bích / nghe rì rào tiếng mách ngoài xa”, lại “mơ hồ nghĩ tiếng xe ra” mà vội vội vàng vàng “đốt phong hương hả mà hơ áo tàn” ngồi đợi, để rút cuộc biết đó chẳng qua là “tiếng dế ran ri rỉ” chứ “vắng tanh nào thấy vân mồng / hơi thê lương lạnh ngắt song phi huỳnh”! Rồi “khi bóng thỏ chênh vênh trước nóc”, tức trăng lên đã cao, “kẻ cô phòng” bỗng dưng “nghe vang lừng tiếng giục bên tai”, khiến “đè chừng nghĩ tiếng tiểu đòi”, bèn “nghiêng bình phấn mốc mà giồi má nheo” lại chực đón quân vương, để lại rút cuộc biết đó chẳng qua là “tiếng quyên kêu ra rả” chứ quanh mình “khí bi thương sực nức hè lạc hoa”!... Dĩ nhiên tất cả là do một người “bây giờ đã ra lòng rẻ rúng”, “bây giờ đã ra lòng ruồng rẫy”. Đang bị oán thấu trời đó, biết chăng người đêm đêm ngồi trên xe dê đi dạo vườn hoa ơi.

Diễn ý tiếc và ước ao đời giản dị (c. 285-300)

“Tiếng thúy điện cười già ra gắt / Mùi quyền môn thắm rất nên phai / Nghĩ nên tiếng cửa quyền ôi / Thì thong thả vậy cũng thôi một đời / Ví sớm biết lòng trời đeo đẳng / Dẫu thuê tiền cũng chẳng buồn tênh / Nghĩ mình lại ngán cho mình / Cái hoa đã trót gieo cành biết sao / Miếng cao lương phong lưu nhưng lợm / Mùi hoắc lê thanh đạm mà ngon / Cùng nhau một giấc hoành môn / Lau nhau ríu rít cò con cũng tình / Mình có biết phận mình ra thế / Giải kiết điều óe ọe làm chi / Thà rằng cục kịch nhà quê / Dẫu lòng nũng nịu nguyệt kia hoa này”. “... thắm rất nên phai”!

Cái câu thứ hai, thơ thế kỷ 18 mà lời mới mẻ như thơ Xuân Diệu! Khi “mùi quyền môn” “phai” rồi, người từng “nên tiếng cửa quyền” mới thấm thía chỗ khác nhau giữa “cao lương” và “hoắc lê”. Chao ôi, biết “lợm”, biết “ngon”, biết “phận mình ra thế”, thì “cái hoa đã trót gieo cành”, có muốn làm người “cục kịch nhà quê” cũng không sao mà làm được nữa. “Lau nhau ríu rít cò con cũng tình”, hạnh phúc giản dị xin hẹn kiếp sau!

Tả những phút thẫn thờ (c. 301-308)

“Chiều tịch mịch đã gầy bóng thỏ / Vẻ tiêu tao lại võ hoa đèn / Muốn đem ca tiếu giải phiền / Cười nên tiếng khóc hát nên giọng sầu / Ngọn tâm hỏa đốt rầu nét liễu / Giọt hồng băng thấm ráo làn son / Dơ buồn đến thú cỏn con / Trà chuyên nước nhất hương dồn khói đôi”.

“Ngoại hỏa” tránh được, chứ “tâm hỏa” biết né làm sao. Lửa trong lòng đốt ngày đêm khiến “rầu nét liễu”, rầu mà cố “hát cười” thì chỉ nên “than khóc”! “Giải phiền” lối này không xong, thử lối khác, bày bàn trà đốt lò hương xem có vui hơn chút nào chăng. Vô ích, trà mới pha lần đầu đã thôi không muốn uống nữa, hương này chưa tàn đã đốt ngay thêm hương khác, “khói đôi” khói ba dồn dập để mong rước một người không hề hẹn đến, cái lòng nóng ruột sốt nó làm cho cái “thú cỏn con” không biết tránh sao cho khỏi bị “dơ buồn”! Vẻn vẹn tám câu thơ, mà dài thay những phút thẫn thờ!

Lại diễn tâm trạng buồn, oán (c. 309-336)

“Trong gang tấc mặt trời xa mấy / Phận hẩm hiu nhường ấy vì đâu / (...) / Vườn Thượng uyển hoa cười với nắng / Lối đi về ai chẳng chiều ong / Doành Nhâm một giải nông nông / Bóng dương bên ấy đứng trông bên này / (...) / Thù nhau chi hỡi đông phong / Góc vườn dãi nắng cầm bông hoa đào / Tay Tạo hóa cớ sao mà độc / Buộc người vào Kim ốc mà chơi / (...) / Trêu ngươi chi bấy trăng già / (...)”.

“Cung oán ngâm” mà. Người cung nữ đã ngâm nga trách móc một thôi rồi (từ câu 189 đến câu 244), đến đây lại ngâm nga trách móc thêm một thôi nữa. “Sinh ly đòi rất thời Ngâu / Một năm còn thấy mặt nhau một lần”... Ấy bởi chàng Ngưu chỉ có nàng Chức, trong khi “chàng Vua” có vô số nàng. Khi hoàn cảnh bất lợi như thế thì thực tế không thể có “thắm nào nhuộm lại tơ hồng cho tươi” đâu. Mệnh đây là “được” tiếp tục “phòng không” khao khát “mây mưa”, “được” tha hồ “chiêm bao những đêm xưa” mà mơ “giọt mưa cửu hạn” cho đến khi không còn một chút xuân nào! Lần trước “khách quần thoa” bị “để lạnh lùng” oán, rồi “bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra”. Lần này, phản ứng có dịu hơn: “Chống tay ngồi ngẫm sự đời / Muốn kêu một tiếng cho dài kẻo căm”. Kêu dù dài vẫn nhẹ hơn đạp nhiều, và cũng “thương” hơn nhiều.

Diễn tâm trạng buồn gần lo xa (c. 337-356)

“Lòng ngán ngẩm buồn tênh mọi nỗi / Khúc sầu tràng bối rối dường tơ / Ngọn đèn phòng động đêm xưa / Chòm hoa tịnh đế trơ trơ chưa tàn / Mà lượng thánh đa đoan kíp mấy / Bỗng ra lòng rún rẩy vì đâu / Bõ già tỏ nỗi xưa sau / Chẳng đem nỗi ấy mà tâu ngự cùng / Ðêm phong vũ lạnh lùng có một / Giọt ba tiêu thánh thót cầm canh / Bên tường thấp thoáng bóng huỳnh / Vách sương nghi ngút đèn xanh lờ mờ / Mắt chưa nhắp đồng hồ đã cạn / Cảnh tiêu điều ngao ngán dường bao / Buồn này mới gọi buồn sao / Một đêm nhớ cảnh biết bao nhiêu tình / Bóng câu thoáng bên mành mấy nỗi / Những hương sầu phấn tủi sao xong / Phòng khi động đến cửu trùng / Giữ sao cho được má hồng như xưa”.

Vẫn cái phòng vách trát tiêu này đêm xưa ấm thế, đêm nay “lạnh lùng có một”; “ngự” ơi, vì đâu “rún rẩy”, “bõ” ơi, sao chẳng tâu giúp một lời... Mưa hoài gió mãi, nước rơi tàu chuối, đom đóm lượn trêu, “đồng hồ” đã đòi dốc ngược mà mắt cứ mở trao tráo, người cung nữ từng “muốn đạp tiêu phòng mà ra”, “muốn kêu một tiếng cho dài”, rút cuộc chỉ ngồi lặng trông “cảnh tiêu điều” để nghe “lòng ngán ngẩm buồn tênh mọi nỗi”... Buồn chết được nhưng vẫn còn đang sống sờ sờ đây, thậm chí cũng chưa phải là đã già. Hãy còn xuân thì “hương sầu phấn tủi sao xong”, phải lo “giữ sao cho được má hồng như xưa” “phòng khi động đến cửu trùng” chứ. “Cửu” ơi có biết, nơi góc ngự viên “Cửu” từng năng lui tới, đóa đồ mi năm ấy giờ đêm đêm vẫn còn thao thức đợi bóng dương!



Thu Tứ
Viết năm 2012
Sửa tháng 5-2019















_________
(1) Phạm Thế Ngũ,
Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, Sài Gòn, 1961-1965.