|
Chế Lan Viên - Thơ chọn (1)
Nhà thơ Về thăm xứ Huế Mơ trăng Tín hiệu Trưa đơn giản Có lúc Sen hư tưởng Nhiệm vụ Tiếng chim vít vịt Canh cá tràu Rễ... hoa Kỷ luật Tuổi già làm thơ tứ tuyệt Thua ong Tiếng hát con tàu Tạo hóa tạo hình Chèo xứ Bắc Đột ngột cây chiều
Khi qua đời năm 1989, Chế Lan Viên để lại một sự nghiệp thơ có nội dung phong phú nhất trong lịch sử thi ca Việt Nam.
Cơ hồ bất cứ cái gì cũng có thể làm đề tài cho thơ Chế Lan Viên: triết lý, nghệ thuật, lịch sử, chính trị, xã hội, nhân sinh v.v. Thi sĩ chú ý đến cả ba phạm trù Chân, Thiện, Mỹ, và xông xáo trong cả hai cõi hữu hình và siêu hình! Ðặc biệt, Chế Lan Viên đã sáng tác rất nhiều bài “thơ nghĩ về thơ”.
Nghe nhắc đến “thơ trí tuệ”, nhiều người có cảm tưởng “khô khan”, thậm chí đặt vấn đề liệu đó có phải đích thực là thơ. Thiết tưởng dù suy nghĩ thuần túy cũng vẫn có thể “nên thơ”, huống chi thường khi, bất kể đề tài, trong cái nghĩ vẫn chen cái cảm.(1) Vấn đề là thi sĩ có tài diễn cho sinh động những cảm nghĩ của mình hay không. Chế Lan Viên làm được điều ấy.
Và tuy nổi tiếng hay thắc mắc, suy tưởng, nhưng thực ra Chế Lan Viên cũng không lơ là với nội dung tình cảm: ngoài những bài diễn tình chung là lòng yêu nước, ông để lại không ít thơ chứa đủ thứ tình riêng. Thơ tình cảm của ông “không (...) cuồng nhiệt si mê, mà ý nhị đằm thắm, trang nhã”.(2)
Huy Cận bảo hình thức và nội dung của một bài thơ “quyện nhuyễn vào nhau làm một”.(3)
Thơ Chế Lan Viên lắm nội dung, nên cũng lắm hình thức: cổ phong, Ðường luật, lục bát, thơ Mới... Nhiều nhất là loại thơ “tự do có vần”. Chế Lan Viên chủ trương:
“Tự do quá cũng giết chết thơ như gò bó Kỷ luật bắt ta tìm vàng ở ngay trong đất thó Còn tuyệt đối tự do thì biến hoa thành ra cỏ Bởi xô bồ”!(4)
và thường chọn cho thơ mình thứ kỷ luật vần.
Chế Lan Viên sáng tác rất khỏe, dựng một cõi thơ bát ngát.(5) Dĩ nhiên nghệ thuật quý chất hơn lượng. Nhưng nếu đem so con số những bài thơ hay, chắc chắn trong làng thơ Việt Nam xưa nay ông cũng đứng ở ngay hàng đầu.
Sau đây là Tuyển 1 trong một số tuyển thơ Chế Lan Viên mà chúng tôi định sẽ thực hiện. Tất cả các bài đều sắp xếp ngẫu nhiên chứ không theo thứ tự thời điểm sáng tác, hay theo nội dung, thể thơ gì cả.
Nhà thơ
Mới trông qua tưởng trái cây, trông lại thấy... trái tim “ròng ròng máu nhỏ”!
Mới trông qua chỉ thấy Thúy Kiều, trông lại, ô kìa, chính Nguyễn Du!
Nhà thơ không đưa ngay trái tim mình cho độc giả Mà hái một trái cây đưa cho họ Họ cầm lên ròng ròng máu nhỏ Hóa ra đấy là trái tim mình Mà anh chạm trổ Anh tạo ra hình quả Che đi chính mình.
Về thăm xứ Huế
Dù “anh” có “về thăm xứ Huế” ngay trong năm 1975 đi nữa, thì sen trắng cũng đã thơm ngát cổ thành mấy chục mùa liên tiếp không anh... Bóng cùng “chen bóng cành hoa” chừ biết nơi mô.
Thơm ngát mùa sen trắng cổ thành Về thăm xứ Huế chỉ mình anh Lăng vua hoa đại rơi đầy lối Chen bóng cành hoa, chỉ bóng mình.
Mơ trăng
“Thuyền ai giỡn nước sông Ngân” khiến văng mấy giọt sao xuống trần. “Ngoài thôn lạnh” xương khô Chàm (?) trở trăn, rên rỉ.
Cái đêm trăng Bình Định, nó khiến những tâm hồn đặc biệt nhậy cảm thấy, nghe mới lạ sao.
Mây chắp lụa dài vây núi biếc Sương xây mồ bạc giấu trăng vàng Thuyền ai giỡn nước sông Ngân ấy Mà để sao sa xuống cõi trần? Ai đổi đầu lâu trong nấm mộ (6) Tiếng khua vang rạn khắp đầu ta? Có ai rên rỉ ngoài thôn lạnh Như tiếng xương người rên rỉ khô Mơ rồi! Mơ rồi! Ta mơ rồi! Xạc xào chỉ có lá vàng rơi Quanh mình bóng tối mênh mang cả Thấp thoáng đôi hồi lửa đóm soi
Tín hiệu
Thơ có thứ đọc qua thấy khô khan, đọc kỹ lại thấy có tình cảm “núp” sau lời.
“Phải giấu tình cảm anh đi”. Giấu không phải vì xấu hổ, mà giấu vì người đọc thơ, vì thơ.
Tả một môi son, có khi anh chỉ nói sắc sen hồ Phải giấu tình cảm anh đi như ém quân trong rừng vắng Chỉ vì anh nghĩ đến người độc giả mai sau có cái thú đi tìm vàng trên trang giấy Ðang bơi thuyền giữa sen hồ bỗng bắt gặp môi son
Trưa đơn giản
Lấy óc mà hiểu Trưa Ðơn Giản là chuyện không đơn giản chút nào, có thể vỡ óc!
Óc có vỡ, ấy bởi dùng không đúng chỗ. Ðừng cố “mổ” Trưa. Hãy thử cảm mà thôi xem.
Trưa quanh vườn. Và võng gió an lành Ngang phòng trưa, ru hồn nhẹ cây xanh. Trưa quanh gốc. Và mộng hiền của bóng Bỗng run theo... Lá run theo nhịp võng... Trưa lên trời. Và xanh thẳm bầu trời Bỗng mê ly, nằm thấy trắng mây trôi Trưa! Một ít trưa lạc vào lăng tẩm Nhập làm hồn những tượng xưa u thảm. Trưa, theo tàu bước xuống những sân ga Dựng buồn lên xa gửi đến Muôn Xa. Đây trưa hiện hình trong căn trường nhỏ Đưa tay lên thoa những hàng kính vỡ. Trưa gọi kêu, nâng ngực gió lên trời, Bên vú trái tròn, lá bỗng run môi.
Tiếng ca vương buồn thương song cửa sổ: - Nâng không gian trưa đặt giữa lòng người.
Sen hư tưởng
Chính “trưa” mới hư tưởng!
Cái “mùi lá sen non dại” rất thực ấy, nó vẽ trong lòng ta lắm thứ đến hay!
Nhớ lá sen hồ xa Anh cùng em đến hái Mùi lá sen non dại Ðưa hai đứa lại nhà... Nhưng cái hồ sen ấy Ta đã đến đâu mà Chưa trưa nào thế cả Trong cuộc đời hai ta Sao mùi sen non dại...?
Có lúc
Cái cây thông, Nguyễn Công Trứ có lúc chán đời xin kiếp sau được làm nó để “đứng giữa trời mà reo”. Còn Chế Lan Viên có lúc thích làm thông để “chống chọi với trời đông nghiêm khắc”, với “triệu tấn mây buồn áp bức”...
Có lúc phải làm thông gồng mình lên “nhọn hoắt”, “vững vàng xanh”, nhưng rồi có lúc được làm lau “buông thả phó mình cho gió thu vàng xạc xào xao xác”, được buông “vũ khí” mà cất “tiếng hát mông mênh”, làm người mà được thế tưởng không tệ...
Có lúc anh thích làm cây thông chống chọi với trời đông nghiêm khắc Triệu tấn mây buồn áp bức trên đầu thông nhọn hoắt Vững vàng xanh. Có lúc anh thích làm cây lau buông thả phó mình Cho gió thu vàng xạc xào xao xác Cây lau không vũ khí, mà chỉ có mơ hồ tiếng hát Mông mênh.
Nhiệm vụ
Chế Lan Viên băn khoăn cả siêu hình lẫn hữu hình. Khi này ông thắc mắc “Ta là ai?”, khi khác ông trăn trở ta nên sống thế nào.
“Dẫu là vì vua què (...) cứ phải...”. Thì cũng như dẫu biết thừa là “bánh vẽ”, vẫn cứ “ngồi vào bàn (...) cầm lên nhấm nháp”.(7)
“Ðội mũ, mang hia”, hay đội... nắng, mang... chân không, dù trời bắt sắm vai nào, cũng phải cố đóng cho giỏi, tất cả bạn diễn viên ơi!
Chúng ta ở trên đời không phải để ra lộc ra hoa mà còn để mang thương tích Cũng không phải chỉ nỗi đau cao sang mà là hủi cùi ghẻ lở đục hình hài. Nhưng đã là người thì phải cày cuốc đan thêu, thả lưới, trồng cây, gieo hạt... Dẫu là vì vua què thì cứ phải lên ngôi, Vẫn phải đúc niên hiệu anh vào tiền, ghi năm anh trị vì vào lịch, Chớ vì què mà khập khiễng lên ngai. Ở đời nếu không hài thì cũng phải chơi bi kịch Màn mở, trống rung rồi, anh phải đội mũ, mang hia lên, Mang số phận vào người.
Tiếng chim vít vịt
Chim vít vịt không biết có phải là chim vịt, chim chăn vịt, chim tìm vịt hay không?!
Chim gì không quan trọng, quan trọng là
“Những cái gì một đời mà khoảnh khắc”.
Một đời khoảnh khắc, cũng như “Mãi mãi (...) trong những phút giây”(8), cũng như màu tre xanh mãi mãi trong tiếng chim vít vịt!
Chim vít vịt kêu trong lùm tre Thơ dại Chim im rồi, tre lại Sẫm xanh hơn Và màu xanh như rót xuống tâm hồn Anh chỉ là kẻ phàm phu mắt thịt Chỉ nghe được tiếng chim khi chim kêu Ðâu biết màu tre xanh cũng là tiếng chim vít vịt. Anh nghe sao được cái lặng im thẳm sâu trong hồn Nuối tiếc Một đàn vịt đã bay, đã mất Những cơn mưa xa tắp Chưa về giữa quãng trời, quãng đời khô khốc
Những cái gì một đời mà khoảnh khắc Ðể bây giờ Vít vịt gọi, kêu, lên tiếng nhắc Giữa trời.
Canh cá tràu
Cá tràu hình như người Bắc gọi là cá quả.
Hòa bình trở lại, Chế Lan Viên vào Miền Nam, về thăm quê Bình Ðịnh, ăn một bữa cơm nước mắt.
Cơm chan nước mắt, nhưng thơ chỉ ẩm chứ không ướt, điển hình thơ tình riêng của Chế Lan Viên.
Canh cá tràu mẹ thường hay nấu khế Khế trong vườn thêm một tí rau thơm Ừ, thế đó mà một đời xa cách mẹ Ba mươi năm trở lại nhà, nước mắt xuống mâm cơm!
Rễ... hoa
Dĩ nhiên Chế Lan Viên đang nói về thơ, về nghệ phẩm. Chẳng có đóa thơ, đóa văn, đóa tranh, đóa tượng, đóa nhạc nào không có rễ. Rễ càng sâu, hoa càng đẹp.
Hoa thật rồi tàn, khiến người thưởng thức tiếc nuối. Hoa nghệ thuật không tàn, nhưng đến lúc nào đó sẽ không còn ai thưởng thức nữa...
Rễ sâu, ai biết là hoa Xoắn đau núm ruột làm ra nụ cười Im trong lòng đất rối bời Chắt chiu từng giọt, từng lời lặng im Uống từng giọt nước đời quên Ăn từng thớ đá dựng nên sắc hồng Nở rồi, trông dễ như không Một vùng sáng đọng, một vùng hương bay Tụ, tan màu sắc một ngày Mặt trời hôm, mặt trời mai ngoảnh cười. Bắt đầu từ rễ, em ơi!
Kỷ luật
Kỷ luật là khuôn, có chui qua nó thì hổ, hươu, thơ mới có hình.
Nếu không chịu khó chui, thì hổ, hươu là một đống... lông, còn thơ là một đống chữ.
Khuôn thơ có thứ làm sẵn, có thứ nhà thơ tự làm.
Cần có cái gì như tai ương đến với bài thơ Ðó là luật lệ, đó là điệu vần, đó là gò bó... Nó không thể thẳng đuột đi con đường bỏ ngỏ Mà chỉnh tề hàng ngũ trước gian truân. Có lẽ đã qua một cơn thử lửa nào chăng mà con hổ có lông vằn? Qua nghìn nhát dao đâm nào chăng mà hươu sao có đốm?
Tuổi già làm thơ tứ tuyệt
Ông nói vậy, chứ vẫn tiếp tục ít thơ bốn câu cho đến tận khi “về” (năm 1989).
Mà ông đùa, chứ thơ đâu phải hễ ngắn là tép, dài là tôm! Cứ đọc những bài thơ ngắn của chính ông thì biết.
A
Cười mình vung lưới rộng Thu về con tép con Nhặt bốn câu bé bỏng Sải cánh cả tâm hồn
B
Quên mất mình vừa sáu chục Mở trang giấy rộng, viết dài Gương nhắc mái đầu chớm bạc Lại làm có bốn câu thôi.
Thua ong
Rắc rối với những đóa đời Là có khi bay qua rồi Anh mới biết. Ðể mà tiếc. Thời gian chảy một chiều thôi. (TT)
Ðến với hương, anh cứ phải đi vòng Ði bất tận mà thua loài ong nhỉ Vụt một cái, chúng vào sâu tận nhụy Vào cung hoa thầm kín nhẹ như không.
Tiếng hát con tàu
“Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn!”
Không phải đất nào ở lâu cũng hóa tâm hồn. Hóa chỉ xảy ra khi giữa đất và người có tình nghĩa, có yêu thương...
Về cuộc trường kỳ kháng chiến đánh đuổi giặc Pháp, Chế Lan Viên làm tương đối ít thơ, nhưng vẫn để lại được thơ giá trị, như bài rất nổi tiếng này.
Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc Khi lòng ta đã hóa những con tàu Khi Tổ Quốc bốn bề lên tiếng hát Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu? Con tàu này lên Tây Bắc, anh đi chăng? Bạn bè đi xa, anh giữ trời Hà Nội Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng Ðất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi? Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia Trên Tây Bắc, ôi mười năm Tây Bắc! Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng Nơi máu nhỏ tâm hồn ta thấm đất Nay rạt rào đã chín trái đầu xuân Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa Nghìn năm sau còn đủ sức soi đường Con đã đi nhưng con còn vượt nữa Cho con về gặp lại Mẹ yêu thương Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ Cỏ đón giêng, hai, chim én gặp mùa Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa Con nhớ anh con, người anh du kích Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách Ðêm cuối cùng anh cởi lại cho con Con nhớ em con, thằng em liên lạc Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc Mười năm tròn chưa mất một phong thư Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc Năm con đau, mế thức một mùa dài Con với mế không phải hòn máu cắt Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương? Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở Khi ta đi, đất đã hóa tâm hồn! Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng Như xuân đến chim rừng lông trở biếc Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng Ðất Tây Bắc tháng ngày không có lịch Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương Ðất nước gọi ta hay lòng ta gọi? Tình em đang mong, tình mẹ đang chờ Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga Mắt ta nhớ mặt người, tai ta nhớ tiếng Mùa nhân dân dăng lúa chín rì rào Rẽ người mà đi, vịn tay mà đến Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao Nhựa nóng mười năm nhân dân máu đổ Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ Mười năm chiến tranh vàng ta đau trong lửa Nay trở về, ta lấy lại vàng ta Lấy cả những cơn mơ. Ai bảo con tàu không mộng tưởng? Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng? Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân.
Tạo hóa tạo hình
Ðây một quả buồn, kia một vũng vui... Cả cái tự nhiên muôn hình vạn trạng này chẳng qua những trận vui buồn bất chợt của Ai sao?
Rồi Ai đã “cảm” thế nào mà tạo ra loài người là thứ sinh vật cũng loay hoay “tạo”?
Bao nhiêu núi bể bấy nhiêu Tình. Bao nhiêu thơ tranh tượng nhạc bấy nhiêu tình. Tình của Người và của người hiện hình chật ních thế gian!
Một chiều kia Tạo hóa bỗng dưng buồn Liền lấy buồn ra dựng những Thiên Sơn Kể cứ buồn không thôi, chả làm gì cũng là Thượng Ðế Nhưng tạo hình cho buồn, thế cũng hay hơn. Một lần kia Thượng Ðế bỗng dưng vui Người chỉ vui thôi thế cũng đủ rồi Nhưng Người liền nổi sóng lên làm Ðại Hải Ðể cho thủy triều xuống lên đổ những trận cười Chả là Người thấy chúng ta đang chứng kiến Người Chúng ta đòi Hình ở chỗ Người chỉ có Tình thôi đấy. Chúng ta ngắm núi, bể nơi Người chỉ biết buồn vui.
Nghệ sĩ là người nào biết gián cách họ với ta bằng tác phẩm Ðem tất cả cái Bên Trong tạo hình thức Bên Ngoài.
Chèo xứ Bắc
Sơn Nam bảo làm văn nghệ lắm khi là khóc mướn thương vay.
Tức chẳng hạn người trong cuộc xúc động về chuyện gì đó mà rơi nước mắt, rồi nghệ sĩ xúc động trước cảnh nước mắt rơi mà làm bài thơ, soạn bản nhạc, vẽ bức tranh, nặn pho tượng v.v.
Khóc mình hay khóc người, miễn xúc động chân thành là được.
Ðiệu chèo như tà áo Mà thời gian thổi bay Cứ mỗi lần xoay Thì năm tháng mất Nhớ hậu phương mười năm xa lắc Nhớ rau rút ao bèo đất Bắc Buổi tiễn đưa một bát canh cần Nhớ đầu tre vẫy ngọn lúc xa làng Người con gái tiễn ra bờ đê không dám khóc Tiếng í a dìu dặt Ðêm hội chèo thơm nức hoa xoan... Bao bạn cùng quê cùng đi đánh giặc Chia tay nhau biết mấy chiến trường Hẹn ngày về nghe chèo xong ra sông tắm mát Mà nay lắm thằng đành ngủ lại Trường Sơn.
Đột ngột cây chiều
“Em hẳn nhớ mong anh”, tình yêu chắc chắn ghê.
Chuyện hai lòng Chế Lan Viên thường chỉ bốn câu, mà thấm.
đột ngột cây chiều xanh mướt xanh thôi rồi em hẳn nhớ mong anh phố dài bóng nắng cây hai dãy thiếu giữa hàng cây dáng chúng mình.
Thu Tứ
______________ (1) Trần Mạnh Hảo nói về thơ CLV: “... vừa rưng rưng sương khói cảm xúc, lại vừa chói lòa ánh sáng của trí tuệ” (TMH, Thơ - phản thơ, nxb. Văn Học, 1997, tr. 36). (2) Lời Nguyễn Xuân Nam, trong Chế Lan Viên - Tuyển tập I, nxb. Văn Học, VN, 1985, tr. 68. (3) Trong Tuyển tập Huy Cận II - Thơ và văn xuôi, trích đăng lại trên trang gocnhin.net dưới nhan đề “Sự đầu thai của một tứ thơ”. (4) Bài Tự Do Và Thơ. (5) Một số thơ in sau khi tác giả qua đời, thành ba tập “Di cảo”. (7) “Ai trở đầu lâu trong nấm mộ” chăng? (8) Bài Bánh Vẽ. (9) Bài Mãi Mãi của Xuân Diệu.
|
|