|
Một vùng non nước rất đỗi nên thơ! Lại dễ đi, nên biết bao văn nhân đã... Trong số “thơ nên” nhân vãn cảnh chùa Hương, riêng Chu Mạnh Trinh góp ít nhất ba bài. Ngoài bài hát nói “Hương Sơn phong cảnh” nổi tiếng, ông còn hai bài lục bát trường thiên “Hương Sơn nhật trình” và “Hương Sơn hành trình”. (Thu Tứ)
Chu Mạnh Trinh, “Hương Sơn nhật trình”
Hương Sơn là thú thanh tao Những là nay ước mai ao mấy lần Thanh bình gặp hội du xuân Yến oanh nô nức xa gần đua nhau Thuận dòng ngàn liễu nương dâu Một thuyền đàn sách, lưng bầu gió trăng Buồm lan nhẹ cánh lâng lâng Hay đâu mượn gió gác Đằng đưa duyên Giang sơn thì vẫn người quen Dạo chơi Châu Phố, xuôi miền Đục Khê Chuông vàng gác bóng non tê Dừng chèo ướm hỏi lối về chùa trong Lần khe Yến Vỹ đi vòng Bốn bề bát ngát xa trông lạ nhường Giữa dòng đáy nước lồng gương Mượn chèo ngư phủ đưa đường Đào Nguyên Lạ cho vừa bén mũi thuyền Mà trăm não với nghìn phiền sạch không Bầu trời man mác xa trông Biết đâu, nước Nhược non Bồng là đâu... Cỏ cây xanh ngắt một mầu Yết thần vạn tuế, lên lầu Ngũ Doanh Nhác trông sơn thủy hữu tình Bút thần khôn vẽ bức tranh nào bằng Chung quanh những núi cùng rừng Đồng Ông một dải ngang lưng Hang Bà Núi Xôi, núi Oản, Núi Gà Núi Con Voi Phục bày ra bên cầu Nào ông Sào Phủ đi đâu? Hang Luồn còn lối dắt trâu rõ ràng Tiếng đâu văng vẳng chuông vàng Khói đâu nghi ngút mùi nhang Thiên Trù Thuyền lan mấy mái chèo đua Một giây thẳng tới bến chùa bước lên Lầu chuông gác trống đôi bên Cửa rồng năm sắc, đài sen chín tầng Muôn hồng nghìn tía tưng bừng Suối khe thét nhạc, thông rừng dạo sênh Chim cúng trái, cá nghe kinh Then hoa cài nguyệt, chày kình nện sương Nam vô Phật Tổ vô lường Trai thành dâng một nén hương trụ trì Nước công đức cửa từ bi Nhịp cầu khổ hải, cánh bè mê tân Người lễ Phật, kẻ cầu thần Người con công, kẻ mộc ân vô vàn Phòng tăng tựa chốn thanh nhàn Vui vầy đạo Bụt mê man cảnh thiền Lò trầm chưa dứt hương nguyền Túi thơ đủng đỉnh dạo miền Giải Oan Hỏi đây là đệ nhị quan? Rành rành vết ngọc còn in dấu giày Luân hồi nào có ai hay? Oan gia thực lấy nước này giải cho Lần theo dấu thỏ quanh co Qua rừng mơ đã đến chùa Trấn Song Bầu trời bát ngát xa trông Võng trời rủ xuống mấy vồng thướt tha Chắp tay niệm Phật Di Đà Kẻ ngồi, kẻ đứng, kẻ ra, người vào... Non trời biết mấy từng cao Đã đi phải đến, đã trèo phải lên Một tòa phong cảnh thiên nhiên Gió đưa văng vẳng nhạc tiên xa dần Cheo leo đỉnh núi non thần Cúi đầu trời thấp, bước chân mây đùn Hoa đua thắm, liễu khoe non Chim đánh mõ, vượn ru con dập dìu Mẫu (?) thanh vẻ lịch trăm chiều Hỏi ai mở khoá động đào cho nhau Một làn thăm thẳm hang sâu Rẽ đường nhác thấy đôi cầu hai bên Kìa Lẫm Thóc, nọ Kho Tiền Kìa Bảo Tọa, nọ Kim Liên rõ ràng Phất phơ giải phướn vắt ngang Nước đâu rỏ giọt quỳnh hương trên đầu Khen ai khéo dệt kim châu Áo cà sa đủ năm màu lung linh Khen ai khéo lựa tơ đồng Cống xang hồ đủ năm cung nhịp nhàng Thiên đường một lối sáng choang Đường đi âm phủ một hang tối mò Biết ai rằng: cậu hay cô Lầm đôi đường có (?) nhấp nhô đầu người Bút hoa ai kéo vẽ vời Rêu in vách đá một vài câu thơ Khói trầm ngào ngạt xa đưa Giục người trong mộng, trống trưa chuông chiều Ngọn đèn lồng bóng trăng treo Tiếng kinh xen tiếng tiêu thiều hôm mai Phật Bà ngự ở liên đài Tả Long Nữ, hữu Thiện Tài hai bên Kiếp tu hành biết mấy phen Dẫu thiêng biết mấy nghìn đêm ta bà Chấp tay làm lễ bước ra Hồ đi lại đứng dần dà mấy phen Người trần mà ở non tiên Họa may sau có nhân duyên chăng là... Trải bao dặm liễu đường xa Nhật trình chắp nhặt câu ca mấy vần.
|
|