|
“Bạc Tần Hoài”
của Đỗ Mục
Trần Hậu Chủ (582-589) làm vua không lo việc nước mà mê gái, mê hát, mê rượu. Tất nhiên nước mất gấp. Hậu đình hoa có truyền từ trong cung ra ngoài, nên mới có chuyện sau khi nước Trần mất, ban đêm bên kia sông con hát vô tư “xướng” khiến bên này sông chạnh lòng... Nhưng khi Đỗ Mục sinh ra (năm 803) thì chuyện nước Trần đã thành chuyện đời xưa! Ông “bạc Tần Hoài”, cảm khái, rồi tưởng tượng mà làm thơ?
Nguyên văn
Yên lung hàn thủy nguyệt lung sa Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia Thương nữ bất tri vong quốc hận Cách giang do xướng Hậu đình hoa.
Dịch nghĩa
Khói lồng sông lạnh, ánh trăng lồng bãi cát Ðêm đỗ thuyền ở bến Tần Hoài, gần quán rượu Con hát không biết hờn mất nước Bên kia sông còn hát khúc Hậu đình hoa.
Dịch thơ
Bản 1:
Chập chờn sông khói, bờ trăng Tối nay thuyền đỗ bến Tần tìm say Kìa ai nước mất mặc ai Kéo co khách mới vẫn bài ca xưa.
Bản 2:
Khói mờ sông lung linh trăng cát Bến đêm thuyền đỗ sát tửu gia Nước non hờ hững, gái ca Bên sông vẫn “Hậu đình hoa” vang lừng!
Bản 3: Khói sông trăng cát nhập nhòa Thuyền khuya nghỉ đỗ bên nhà bán men Gái ca mất nước mau quên Đua nhau điệu cũ thâu đêm hát lừng…
Bản 4:
Khói trùm sông lạnh cát trăng soi Thuyền đỗ lên bờ lại chén chơi Con hát ngu ngơ hờn mất nước Ca vui bài cũ suốt canh dài…
Bản dịch thơ khác
Sông Tần khói tỏa, trăng in Bên ngoài quán trọ, con thuyền đêm qua Mặc ai tan nát nước nhà Chị em vẫn hát bài “Hoa sau vườn”. (Ngô Tất Tố)
Trăng mờ khói lạnh cồn xa Đò đêm buộc bến tửu gia Tần Hoài Ca nhi hận nước mặc ai “Hậu đình hoa” vẫn ngân dài bờ khuya. (Lê Phụng)
Khói trăng cát nước in lồng Dừng thuyền nhà rượu gần sông canh tàn Gái buôn chẳng biết hận than “Hậu đình” còn hát tiếng vang cách vời. (Khuyết danh)
Thu Tứ
_______ Tên bài nghĩa là “Đỗ bến Tần Hoài”.
|
|