|
Phạm Thiên Thư - Hiên hoa vàng
Chút Bâng Khuâng Trên Hiên Hoa Vàng gồm 100 câu thơ lục bát.
“Hoa Vàng trên Hiên” không phải “Hoa Vàng trên Động”, vốn không biết là thứ hoa gì. Vàng đây chỉ là vàng cúc thường gặp.
“Hiên” tuy nhỏ hơn “Động” (400 câu), nhưng cơ bản cùng một lối xây. Nghĩa là không có xây dựng gì cả! Hiên cũng như Động, là tùy bút chứ không phải là truyện như Truyện Kiều. “Người trên hiên” không kể một câu chuyện mạch lạc, mà hoàn toàn ngẫu hứng diễn ca hết “chút bâng khuâng” này đến “chút bâng khuâng” khác. Đọc Hiên, như nghe cảnh kia cảnh nọ bỗng cất lên lời nhiều khi đẹp đến “bâng khuâng”!
Sau đây là thi phẩm, tạm chia làm năm phần.
Chút bâng khuâng... (1)
Bâng khuâng – cúc – nắng vàng – hiên Ngẩn ngơ – mây – bướm trắng – vờn non xa... Lên nương cúi giữa chiều tà Nghiêng bầu – kín – nước suối pha mây trời...
--
Trầm ngâm hiên cúc hoa vàng Gió thu xô chín đôi tàng mẫu đơn Sụt sùi mưa bụi đòi cơn Mây bay như bướm trắng vờn đỉnh xa
Vô tình bước xuống hội hoa Nhện giăng sương đọng như là thủy tinh Long lanh in đậm bóng mình Tự ta đạp vỡ cái hình khói sương
Vác dao lần bước lên nương Rưng rưng lòng thấy yêu thương lạ lùng Chung quanh non núi điệp trùng Mở ra một nghĩa vô cùng cao sâu
Quẩy ngang hai trái khô bầu Chiều thu kín nước bên cầu suối xanh Vào bầu mây tím xô nhanh Trôi hoài dằng dặc sao đành bước đi.
Chút bâng khuâng... (2)
Đêm khuya, lau lách tụng kinh, chim gõ mõ, hết canh này sang canh khác, thế còn thiền sư thì làm gì?
Ấy, nghe mõ chim kinh lau, nhất là kinh lau, không phải ai cũng nghe được đâu. Sư lắng nghe, canh này sang canh khác, rồi không tụng không gõ gì cả, mà gieo vần...
--
Đêm đêm lau lách thầm thì Họp nhau tụng phẩm kinh gì nửa khuya Con chim tu núi đâu về Sầu buông nhịp mõ lê thê canh trường.
Chút bâng khuâng... (3)
Ai “khoác áo tơi qua cầu dừng chân ủ rũ”? Ai “bỏ lên vách núi lam ngần” ca hát giữa “bạch vân”, “tung tăng vuốt cỏ vin cây”, bị “bươm bướm hồng” xúm lại “vây”? Ai “bẫy chim dưới bãi”, “hun chuột bên cồn”? Rồi ai “kết dây cỏ biếc quanh đầu” “bâng khuâng chống gậy qua cầu tre xanh”?
Có phải là “sư” xuôi ngược dòng thời gian, từ bây giờ về xưa rồi lại từ xưa trở về bây giờ?
“Bờ lau chim đậu cong nhành nhạc thu”!
Chợt nẩy ý bẻ đôi nhành đầu cuối trên cây này chắp lại chơi:
“Chiều vàng phơ phất mưa buông Vàng hong mái rạ vàng luồn khe lau Núi cao chín ửng sương mù Chợ mây tím rúc chuỗi tù và tan”.
--
Chiều vàng phơ phất mưa buông Vàng hong mái rạ vàng luồn khe lau Áo tơi ai khoác qua cầu Dừng chân ủ rũ phơi màu buồn tênh
Bỏ lên vách núi lam ngần Tiếng ca cất giữa bạch vân sum vầy Tung tăng vuốt cỏ vin cây Gặp đàn bươm bướm hồng vây chập chờn
Bẫy chim dưới bãi hoàng hôn Lại ra hun chuột bên cồn hoa lau Kết dây cỏ biếc quanh đầu Bâng khuâng chống gậy qua cầu tre xanh
Đuổi vồ châu chấu loanh quanh Bờ lau chim đậu cong nhành nhạc thu Núi cao chín ửng sương mù Chợ mây tím rúc chuỗi tù và tan.
Chút bâng khuâng... (4)
Đây là thời còn bên mẹ bên chị, còn trẻ con vì “ta hù ngấp ngó”, mà lại không còn trẻ con vì “gặp một cô nàng cười duyên” thì đã biết “chao ơi (...) đồng tiền”!
Dù bé dù không, thời chiều chiều được lăng quăng “bên dòng kim nhũ (...) dồn mau”, tối tối được vác đèn đóm nõn khoai đi “dạo đường dài”, đêm đêm được nghe “đàn dế xẩm (...) một dây ri rỉ”, rồi cứ hễ đến “tết thu” thì được giữa “gia đình tụ giữa sân trông (trăng)” mà “nhón mấy bông cúc vàng” giữa rá, thời ấy làm sao có ai quên?
--
Mẹ về cho búp hoàng lan Đêm trăng gối cỏ ươm làn thanh hương Cây đàn dế xẩm đầu giường Một dây ri rỉ đoạn trường lại kêu
Chị ngồi phiến đá nâu rêu Bên dòng kim nhũ suối chiều dồn mau Nghiêng nghiêng cầm lược chải đầu Ta hù ngấp ngó bên cầu vi lô
Trăng nằm ngoài nội cỏ khô Tết thu rang một rá ngô trắng hồng Gia đình tụ giữa sân trông Nhón trăng hay nhón mấy bông cúc vàng
Mẹ lên Đền Mẫu dâng nhang Theo đi gặp một cô nàng cười duyên Chao ơi má lúm đồng tiền Dặm về lãng đãng hai miền chiêm bao
Đuổi quanh bãi thấp bờ cao Bắt dăm con đóm túm vào lá khoai Buộc nhành cây vác lên vai Làm đèn xanh dạo đường dài chơi thu
Chút bâng khuâng... (5)
Chị, mẹ xong, giờ tới thầy. “Cây” thơ nhớ thầy cũng lắm nhành đẹp. Lại xin ngẫu hứng bẻ chắp:
“Nẻo xa tim tím mây trời Sương chiều lẫn tiếng guốc rơi chậm buồn Ghé thăm từng cụm mù sương Đôi chim hát dạo đàn vương giữa trời Lim dim hiên cỏ thấm lời Mang mang não nhịp à ơi võng sầu Cửa vàng khuôn kín lá thu Mưa tuôn sùi sụt đèn lu gió lùa...”.
Xưa thầy “rung đùi lẩy mấy vần thơ Đoạn Trường”. Nay “ta”
“Lưng non tươi một hạt đèn Rung đùi chép Chút Hiên Vàng Bâng Khuâng”!
--
Thầy ngồi sau ngọn đèn lu Rung đùi lẩy mấy vần thơ Đoạn Trường Ghé thăm từng cụm mù sương Đôi chim hát dạo đàn vương giữa trời
Võng sầu não nhịp à ơi Lim dim hiên cỏ thấm lời mang mang Gió đâu lên ngọn đồi vàng Chờ ai mà vịn đôi tàng bể dâu
Dạo hoàng hôn đỉnh núi sau Cha con bước giữa một màu vàng hoe Thầy cầm chiếc quạt nan tre Chỉ cho ta ngắm một bè mây bay
Cầm roi xuống ngó trâu cày Theo sau chú bé một bầy dã chim Lại bên bệ đá đồi sim Ngồi bắt chước Phật cười im bụi hường
Hầu thầy khoác nón tà dương Tay mang túi sách lên đường dong chơi Nẻo xa tim tím mây trời Sương chiều lẫn tiếng guốc rơi chậm buồn
Gió lùa sùi sụt mưa tuôn Lá thu che kín nửa khuôn cửa vàng Thầy nghiêng tựa tráp mơ màng Ta khoanh tay đọc nốt trang thánh hiền
Người ngồi hút thuốc trên hiên Trông con cặm cụi mài nghiên son hồng Nhón cho ta một vài bông Ngọc lan thơm nức thưởng công học hành
Lên nương bày trận tập tành Tay ôm vạt nhọn lá xanh gài đầu Phe làm Tây đến lùa trâu Phe làm du kích vật nhau hào hùng
Mắt thầy suy ngẫm mông lung Vuốt râu nhàn thấm một chung nước trà Gió thu xao xác đầu nhà Thương ai nhổ hạt trăng sa xuống thềm
Mở trang sách thuốc thâu đêm Thầy nằm trõng trúc tựa viền trăng hoen Lưng non tươi một hạt đèn Lá khô lệ gót buồn len gối sầu
Vào bẫy chim giữa rừng sâu Cánh hoa rơi lợp trên đầu như mưa Chợt buồn ngâm mấy dòng thơ Thử xem sắt đá ngồi chờ thi gan.
Thu Tứ
|
|