|
“Phong Kiều dạ bạc”
của Trương Kế
Trong số những bản dịch Phong Kiều dạ bạc sang tiếng Việt, phổ biến rộng rãi hơn cả là bản không biết của Nguyễn Hàm Ninh (1808-1867) hay của Tản Đà (1889-1939). Nếu là Nguyễn Hàm Ninh, thì bài thơ này của Trương Kế đã được dịch rất sớm, đại khái cùng thời với Thu hứng của Đỗ Phủ và Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị.
Nguyên văn Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên Giang phong ngư hỏa đối sầu miên Cô Tô thành ngoại Hàn San tự Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
Dịch nghĩa Trăng lặn, quạ kêu, sương đầy trời Hàng phong bờ sông và những đèn câu “đối” giấc ngủ buồn (Từ) chùa Hàn San bên ngoài thành Cô Tô Nửa đêm tiếng chuông vọng đến thuyền khách.
Dịch thơ
Bản 1: Quạ kêu trăng xế trời sương Đèn lu cây tối, chập chờn tỉnh mê Nửa đêm thức giấc nằm nghe Chùa đâu chuông đánh xa đưa tận thuyền.
Bản 2: Sương giăng quạ réo trăng tà Lom đom chài lửa lờ mờ bến cây Ngủ đêm thuyền đỗ buồn ơi Nửa khuya nghe tiếng chuông rơi, ngỡ ngàng...
Bản 3: Quạ kêu, trăng rụng, sương mù Đìu hiu bến bãi chia sầu người mơ Nửa đêm chuông nổi chùa xa Mui bồng tiếng lọt, ngẩn ngơ khách nằm…
Bản 4: Trăng tà, quạ réo, sương rơi Đèn câu, cây bến, buồn ơi ngủ đò… Nửa đêm ai thỉnh chuông chùa Nằm nghe tiếng vọng, nửa ngờ chiêm bao…
Bản 5: Trăng đâu mất, quạ kêu, sương bủa Bến đìu hiu, khách ngủ buồn sao Thật chăng hay giấc chiêm bao? Nửa đêm nghe tiếng chùa nào chuông vang!
Bản 6: Trăng đâu? quạ réo, sương lùa Quạnh hiu bến nước thêm sầu giấc ai Chuông chùa mấy tiếng chơi vơi Dư âm dứt đã, chưa thôi bàng hoàng… Bản 7: Đìu hiu bến quạnh, mộng sầu Trăng rơi khuất bóng, quạ gào, sương sa Chùa đâu chuông bỗng ngân nga Nửa đêm vòng sóng lan xa tận thuyền…
Bản 8: Lửa chài soi giấc ngủ côi Quạ kêu trăng xế, kín trời sương sa Nửa đêm chuông thỉnh chùa xa Dở mê nghe tiếng ngân nga, giật mình.
Bản 9: Trăng xế, quạ kêu, sương kín trời Đèn lu, cây tối, ngủ buồn ơi “Nửa đêm” chuông đánh, chùa đâu lạ Tỉnh giấc ai ơi, sắp sáng rồi!(1)
Bản dịch thơ khác
Trăng tà chiếc quạ kêu sương Lửa chài cây bến sầu vương giấc hồ Thuyền ai đậu bến Cô Tô Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San. (Nguyễn Hàm Ninh / Tản Đà)
Thu Tứ
_______ Tên bài nghĩa là “Đêm đỗ thuyền ở Phong Kiều”. (1) Trong Thơ Đường - Tản Đà dịch (nxb. Trẻ, 1989), Nguyễn Quảng Tuân nhận xét: “... nửa đêm không làm gì có tiếng chuông chùa (...) nguyệt lạc (...) là cảnh lúc về sáng rồi. Tác giả đi nằm lúc nửa đêm song cứ mơ màng (...) khi chợt tỉnh (...) bị ảo tưởng thời gian nên cho là mới có nửa đêm”. Đúng là chuông chùa hiếm khi thỉnh lúc nửa đêm, nhưng chắc nếu có lý do vẫn thỉnh được, còn về thời điểm trăng lặn thì trăng thượng huyền mọc ban ngày, lặn lúc nửa đêm. Tuy nhiên, chúng tôi cũng nhân đọc ý kiến này mà dịch thêm một bản.
|
|