“Trúc lý quán”

của Vương Duy




Gần năm trăm năm trước đó, đã có bảy ông kéo vô ngồi.(1) “Thất hiền” nghe nói “dô” nhiều, đàn hát dữ, nhưng không thấy để lại thơ thẩn gì về “hoạt động” trong “trúc lâm”. Vương Duy cũng vô rừng trúc, một mình, hình như không rượu, “độc tọa” rồi “độc diễn” tưng bừng, rồi làm luôn một bài “độc thi”... Đêm “thâm lâm” xưa chỉ trăng sáng biết. Bây giờ “nhân nhân” đều biết.

Nguyên văn

Ðộc tọa u hoàng lý
Ðàn cầm phục trường khiếu
Thâm lâm nhân bất tri
Minh nguyệt lai tương chiếu.


Dịch nghĩa

Một mình ngồi trong rừng tre thanh vắng
Ðánh đàn rồi huýt gió
Rừng sâu không ai biết
Chỉ có trăng sáng đến soi nhau.

Dịch thơ

Bản 1:

Trúc lâm độc nhất hiền!
Ngồi gẩy, huýt liên miên
Xó rừng chân nào tới
Trăng rọi tiểu thần tiên.


Bản 2:

Rừng tre thanh vắng ngồi chơi
Gẩy đàn tình tính chán rồi lại ca
Nơi đây ai biết đâu mà
Chỉ ông trăng sáng ngân nga với mình.


Bản dịch thơ khác

Một mình giữa đám rừng tre
Ðánh đàn cao hứng hát nghe một bài
Rừng sâu nào có ai hay
Bóng trăng đâu đến chiếu ngay vào mình.
(Trần Trọng Kim)



Thu Tứ















_______
Tên bài nghĩa là “Nhà trong rừng tre”.
(1) Tức “Trúc lâm thất hiền” đầu đời Tấn.