“Tỳ bà hành”

của Bạch Cư Dị




“Tỳ bà hành” là bài hành nổi tiếng nhất trong văn học Trung Quốc.

“Hành” là gì?

Tra Đại từ điển tiếng Việt, thấy đó là “bài thơ dài dùng làm lời cho bài hát”.(1) À, về kích thước thì quả “Tỳ bà hành” có đến non 100 câu, “Yên ca hành” của Cao Thích 28 câu, “Lệ nhân hành” của Đỗ Phủ 26 câu, “Binh xa hành” của Đỗ Phủ 35 câu, nhưng các bài “Tòng quân hành” của Vương Xương Linh, “Trường Can hành” của Thôi Hiệu, “Lũng Tây hành” của Trần Ðào, “Tòng quân hành” của Lệnh Hồ Sở đều chỉ có bốn câu. Về mục đích sáng tác, các bài hành dài dĩ nhiên đều là thơ cổ phong, các bài ngắn thì có bài cổ phong có bài Đường luật, nhưng bất kể làm theo thể nào thì cũng không thấy được là có tiện làm lời cho bài hát hơn những bài thơ không phải là hành.

Trang Mạng của Viện Hán Nôm có đăng một bài nghiên cứu trong đó hành được hiểu hoàn toàn khác. Đây tác giả cho rằng hành là bài thơ “thường đề cập đến những vấn đề chung, những sự kiện mới lạ, bất ngờ hay những đồng cảm tạo ấn tượng mạnh mẽ; chủ thể trữ tình thường kể lại sự việc với tâm trạng bức xúc, có thể bày tỏ thái độ, chính kiến; thể thơ cổ phong thường được sử dụng để biểu đạt không bị gò bó, ràng buộc”.(2) Chúng tôi thấy ý kiến này xác đáng.

*

“Tỳ bà hành” đứng đâu trong cái định nghĩa rất dài vừa nêu? Nó sờ sờ ngay đằng sau mấy chữ “đồng cảm tạo ấn tượng mạnh mẽ”.

Nội dung của cái danh phẩm ấy đại khái thế này: Một đêm thu mười mấy thế kỷ trước ở đâu đó phía nam Trung Quốc, có một ông quan cưỡi ngựa ra một cái bến sông tiễn một người bạn đã xuống thuyền, sắp lên đường. Thời ấy bên Tàu bạn bè tiễn nhau cẩn thận lắm. Tiễn gần, tiễn xa, bạn càng thân tiễn càng xa. Điển hình, không phải người đi kẻ ở ngồi suông với nhau, mà bày tiệc rượu, lý tưởng thì tiệc có cả người đàn hát giúp vui. Nhưng vùng này rất đỗi quê mùa. “Bác thông cảm vậy, ở đây chẳng tìm đâu ra ai biết đàn biết hát”. Hai người bạn ngồi uống rượu trong im lặng, cũng đã say mà không thấy vui lên chút nào, bên ngoài thì mặt sông mênh mông dầm trong ánh trăng bàng bạc, phút biệt ly sắp tới buồn quá thể! Đúng lúc ấy, từ đâu bỗng vang lại tiếng đàn tỳ bà! Tất nhiên là chủ khách lập tức cho dời thuyền tìm đến đòi nghe. Nghe một hơi, mọi người còn đang sững sờ vì hay quá, thì nghệ nhân đã lên tiếng giãi bày tâm sự. Ông quan đi tiễn càng sững sờ: ôi, sao mà đời nàng ta lại có nét giống đời mình vậy! Bèn xin được nghe thêm. Thì đây thêm, mà lần này toàn một giọng cực kỳ não nuột thôi, khiến quanh bàn tiệc ai nấy đều vừa nghe vừa khóc. Khóc nhiều nhất, đến nỗi nước mắt rơi ướt cả “áo xanh”, là cái ông quan đã yêu cầu lượt thứ hai.

Trong nội dung vừa kể, có đến ba sự ngẫu nhiên.

Thuyền hai người bạn sắp chia tay đỗ gần thuyền người danh kỹ thất thế là một sự ngẫu nhiên. Sự kế tiếp là trong hai người, có một ông quan đang buồn bã vô cùng vì năm ngoái bị giáng chức, từ triều đình phải ra làm Tư mã ở Giang Châu xa xôi, hẻo lánh. Hai sự ngẫu nhiên này khiến đêm ấy, nơi cái bến Tầm Dương đìu hiu, ngoài tâm sự của chính người đàn, cả tâm sự của một người nghe cũng được vô tình đàn lên! Bỗng nhiên nghe lòng sầu của mình hóa nhạc, ai mà khỏi giọt dài giọt ngắn… Sự ngẫu nhiên cuối cùng: “ai” đó chính là Bạch Cư Dị. Kết quả là bao nhiêu lệ rơi xuống đã hóa thành vần bay lên, còn mãi trong thơ đến tận bây giờ!

Nguyên văn

Tầm Dương giang đầu dạ tống khách / Phong diệp địch hoa thu sắt sắt / Chủ nhân há mã khách tại thuyền / Cử tửu dục ẩm vô quản huyền / Túy bất thành hoan thảm tương biệt / Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt / Hốt văn thủy thượng tỳ bà thanh / Chủ nhân vong quy khách bất phát / Tầm thanh ám vấn đàn giả thùy? / Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì / Di thuyền tương cận yêu tương kiến / Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến / Thiên hô vạn hoán thủy xuất lai / Do bão tỳ bà bán già diện / Chuyển trục tỳ bà tam lưỡng thanh / Vị thành khúc điệu tiên hữu tình / Huyền huyền yểm ức thanh thanh tứ / Tự tố bình sinh bất đắc chí / Ðê mi tín thủ tục tục đàn / Thuyết tận tâm trung vô hạn sự / Khinh lung mạn nhiên mạt phục khiêu / Sơ vi Nghê Thường hậu Lục Yêu / Ðại huyền tao tao như cấp vũ / Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ / Tao tao thiết thiết thác tạp đàn / Ðại châu tiểu châu lạc ngọc bàn / Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt / U yết tuyền lưu thủy há than / Thủy tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt / Ngưng tuyệt bất thông thanh tạm yết / Biệt hữu u tình ám hận sinh / Thử thời vô thanh thắng hữu thanh / Ngân bình sạ phá thủy tương bỉnh / Thiết kỵ đột xuất đao thương minh / Khúc chung trừu bát đương tâm hoạch / Tứ huyền nhất thanh như liệt bạch / Ðông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn / Duy kiến giang tâm thu nguyệt bạch / Trầm ngâm phóng bát sáp huyền trung / Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung / Tự ngôn: “Bản thị kinh thành nữ / Gia tại Hà Mô lăng hạ trú / Thập tam học đắc tỳ bà thành / Danh thuộc giáo phường đệ nhất bộ / Khúc bãi thường giao thiện tài phục / Trang thành mỗi bị Thu nương đố / Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu / Nhất khúc hồng tiêu bất tri số / Ðiền đầu ngân bề kích tiết túy / Huyết sắc la quần phiên tửu ố / Kim niên hoan tiếu phục minh niên / Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn độ / Ðệ tẩu tòng quân ai di tử / Mộ khứ triêu lai nhan sắc cố / Môn tiền lãnh lạc xa mã hy / Lão đại giá tác thương nhân phụ / Thương nhân trọng lợi khinh biệt ly / Tiền nguyệt Phù Lương mãi trà khứ / Khứ lai giang khẩu thủ không thuyền / Nhiễu thuyền nguyệt minh giang thủy hàn / Dạ thâm hốt mộng thiếu niên sự / Mộng đề trang lệ hồng lan can” / Ngã văn tỳ bà dĩ thán tức / Hựu văn thử ngữ trùng tức tức / “Ðồng thị thiên nhai luân lạc nhân / Tương phùng hà tất tằng tương thức / Ngã tòng khứ niên từ đế kinh / Trích cư ngọa bệnh Tầm Dương thành / Tầm Dương địa tịch vô âm nhạc / Chung tuế bất văn ty trúc thanh / Trú cận Bồn giang địa đê thấp / Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh / Kỳ gian đán mộ văn hà vật / Ðỗ quyên đề huyết viên ai minh / Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ / Vãng vãng thủ tửu hoàn độc khuynh / Khởi vô sơn ca dữ thôn địch / Ẩu á trào triết nan vi thinh / Kim dạ văn quân tỳ bà ngữ / Như thính tiên nhạc nhĩ tạm minh / Mạc từ cánh tọa đàn nhất khúc / Vị quân phiên tác Tỳ bà hành” / Cảm ngã thử ngôn lương cửu lập / Khước tọa xúc huyền huyền chuyển cấp / Thê thê bất tự hướng tiền thanh / Mãn tọa trùng văn giai yểm khấp / Tựu trung khấp hạ thùy tối đa / Giang Châu tư mã thanh sam thấp!

Dịch nghĩa

Bến Tầm Dương, ban đêm tiễn khách / Lá phong, hoa lau, hơi thu se sắt / Chủ nhân xuống ngựa, khách đợi dưới thuyền / Cùng nâng chén muốn uống mà thiếu tiếng sáo, đàn / Nên say mà không vui, cuộc chia tay buồn thảm / Phút ly biệt, ánh trăng dầm mặt sông mênh mang / Chợt nghe tiếng tỳ bà văng vẳng trên mặt nước / Chủ nhân quên về, khách cũng quên chuyện rời bến / Tìm đến chỗ có tiếng đàn hỏi xem người đàn là ai / Tiếng tỳ bặt, người đàn muốn nói mà còn ngần ngại / Bèn cho dời thuyền đến gần, xin được gặp mặt / Rót thêm rượu, thắp lại đèn, mở lại tiệc / Mời mãi người đàn mới bước ra / Tay còn ôm đàn che bớt nửa mặt / Dời trục, đàn dạo mấy tiếng / Chưa thành khúc điệu gì cả, mà nghe đã có tình / Rồi từng dây ấm ức, từng tiếng trăn trở / Như kể lể những chuyện không được như ý trong đời / Mặt cúi, tay gẩy liên tục / Nói ra hết những điều chất chứa trong lòng / Nắn nhẹ, vuốt chậm, xóa đi rồi lại khêu lên / Bắt đầu khúc Nghê Thường, tiếp đến khúc Lục Yêu / Tiếng dây lớn rạt rào như mưa sầm sập tới / Tiếng dây nhỏ tỉ tê như lời nói chuyện riêng / Rạt rào, tỉ tê chen lẫn vào nhau / Như vô số hạt châu lớn bé đang rơi xuống mâm ngọc / Như chim oanh học nói ríu rít trong khóm hoa / Suối chảy ngập ngừng, nước vẫn đổ xuống ghềnh / Nước suối bỗng hóa băng, dây đàn bỗng thôi rung / Dây thôi rung, tiếng đàn tạm im / Nhưng tình sâu hận kín lại hiện ra / Lúc im tiếng này lại nhiều tình tứ hơn khi có tiếng / Thình lình, như bình bạc vỡ, nước tuôn tung tóe / Như thiết kỵ ở đâu xông ra, đao thương xoang xoảng / Ðàn xong, rút gẩy, phẩy mạnh xuống giữa mặt đàn / Bốn dây vang lên một tiếng như xé lụa / Đông tây thuyền mảng lặng phắc / Chỉ thấy trăng thu trắng ngời giữa lòng sông / Người đàn thẫn thờ cài cái gẩy vào dây đàn / Xốc sửa áo quần, khép nép đứng dậy / Kể lể: “Em vốn là con gái chốn kinh thành / Nhà ở dưới gò Hà Mô / Mười ba tuổi đã học thành thạo đàn tỳ bà / Tên đứng vào hàng đầu trong phường hát / Cứ biểu diễn xong, các nghệ nhân khác đều trầm trồ / Còn trang điểm xong, ả Thu thường phải phát ghen / Bọn thiếu niên ở Ngũ Lăng tranh nhau tặng thưởng / Mỗi khúc đàn được tặng vô số tấm lụa hồng / Hoa vàng lược bạc đem gõ nhịp gẫy tan / Chiếc quần lụa đỏ hoen ố những vết rượu rơi / Cuộc vui kéo dài từ năm này qua năm khác / Trăng thu gió xuân, lúc nào cũng thong dong / Bỗng đâu người em phải đi lính, dì lại mất / Chiều qua sớm lại, nhan sắc tàn phai / Trước cửa vắng người thưa xe / Tuổi đã lớn, đành nhận lời làm vợ một khách buôn / Chồng ham lợi, coi thường biệt ly / Tháng trước đã đi Phù Lương mua chè / Một mình nơi cửa sông trông giữ chiếc thuyền trống / Quanh thuyền trăng sáng, sông nước lạnh lùng / Ðêm khuya nằm chợt mơ lại tuổi xuân / Mộng rồi khóc, lệ ướt má phấn, đỏ hoe mắt” / Ta nghe tiếng đàn đã muốn than thở / Giờ biết chuyện người đàn càng thấy ngậm ngùi: / “Ta với nàng cùng cảnh bên trời lận đận / Gặp nhau đây, cứ gì phải sẵn quen nhau / Ta năm ngoái từ giã kinh đô / Bị giáng, nằm bệnh ở cái thành Tầm Dương này / Ðất Tầm Dương hẻo lánh, làm gì có âm nhạc / Suốt năm ta không được nghe tiếng sáo, đàn / Nhà ở gần sông Bồn, đất ẩm thấp / Quanh nhà chỉ có lau úa, tre rài / Ở đó sớm tối nghe những thứ tiếng gì? / Nào tiếng cuốc khắc khoải, nào giọng vượn nỉ non / Sớm hoa sông xuân nở, đêm trăng thu tròn / Thường chỉ một mình nâng chén, dốc chén / Há chẳng có điệu ca xứ núi, tiếng sáo đồng quê / Ngặt sao đều lô lô líu líu khó nghe / Tối nay được thưởng thức tiếng tỳ của nàng / Chẳng khác nhạc tiên, làm tai như bừng mở / Xin đừng cáo lui, hãy ngồi lại đàn thêm khúc nữa / Vì nàng ta sẽ viết một bài hành lấy tên Tỳ Bà” / Cảm lời ta, người ấy đứng lặng hồi lâu / Rồi ngồi xuống, lên dây đàn cách gấp gáp / Lần này tiếng đàn buồn bã khác hẳn lần trước / Khiến ai nấy đều che mặt mà rơi nước mắt / Trong đám, ai rơi nhiều lệ nhất? / Quan tư mã Giang Châu áo xanh ướt đẫm!

Dịch thơ (3)

Ðêm thu bến nước tiễn nhau
Rừng phong hiu hắt bãi lau bơ sờ
Người xuống ngựa kẻ ngồi chờ
Chung nâng hiềm nỗi lặng trơ trường đình
(4)
Say mong khuây khỏa, không thành
Biệt ly sóng bạc trăng dầm, buồn sao
Rẽ ràng chợt bắt buông đâu
(5)
Người đi kẻ ở trông nhau ngỡ ngàng
Tỳ bà! Nghe những bàng hoàng
Như mơ mà thật, hãy còn tơ rung!
Thuyền dời tìm đến vui chung
Ðèn khêu rượu rót mặt mừng chờ hoa
Vị lời mời mọc thiết tha
Cao bưng kín nửa đàn ra bước hờ
Dây so mấy tiếng lưa thưa
Tứ cầm chưa giãi tình tơ đã bày
Nhạc đâu, đời chính là đây
Từng cung tấm tức, từng dây nghẹn ngào
Nhập thần vẫy khúc chiêm bao
Nhất sinh tâm sự tuôn trào đầy không
Nhặt, khoan, bắt bắt, buông buông
Lục Yêu tiếp đến Nghê Thường liền tay
Khi to rào rạt mưa bay
Lại khi lất phất lay phay mưa lòng
Nhỏ, to chen gẩy vào trong
Hạt châu lớn bé mâm bồng đua rơi
Lúc oanh lo líu chẳng ngơi
Lúc khe nước hóa bọt sôi cuối ghềnh
Rét đâu đông đứt dây mành
Tơ đang rung bỗng chỉ tằm trơ trơ
Ðàn im, hận khác vẻ đi
Không đàn, tình tứ hơn khi có đàn!
Bỗng như bình bạc vỡ tan
Bỗng như xung sát qua can trận tiền
Khúc chung, tay phất mặt đàn
Bốn dây một tiếng lụa vang xé trời
Ðông tây thuyền mảng rụng rời
Ðêm thu còn chỉ trăng ngời giữa sông!
Gẩy cài thờ thẫn cáo xong
Chỉnh trang khép nép cởi lòng mấy câu:
“Đế đô xa cách đã lâu
Vốn xưa thị tứ hồng lâu cũng gần
Tuổi mười ba học đã thuần
Tỳ bà đệ nhất danh cầm một phương
Đàn lên tài tử đều kiêng
Điểm trang xong, mặt chị em trĩu hờn
Bốc rời công tử đòi cơn
Lụa tung kín đất kim ngân lóa trời
Quỳnh tương rót rót vơi vơi
Hồn xiêu dáng ngả ngớn rơi ố hồng
Mai gió mát, tối trăng trong
Xuân đi ai ngỡ xuân không trở về
Dì, em bỗng chốc chia lìa
Nhớ thương hôm sớm lụy bề dung nhan
Héo hoa ai kẻ ngó ngàng
Trăm năm kiếm chút bạn đàng cho xong
Chồng tham buôn bán tây đông
Vợ đang lòng để bên sông dật dờ
Thuyền đơn bóng lẻ chơ vơ
Nước trôi trăng dõi gối trơ lạnh lùng
Trở trăn mơ lại tuổi xuân
Lệ trong mộng ứa rơi lăn má đời”
Tiếng tỳ nghe đã than ôi
Giờ thêm chuyện kể rã rời lòng ai:
“Cùng thân đất khách lạc loài
Dẫu chưa quen biết cũng coi cựu tình
Ta từng quan chốn đế kinh
Sa cơ phải giáng náu mình Tầm Dương
Một thân nằm bệnh viễn phương
Ðàn hay sáo ngọt vấn vương thôi đành
Nhà ta lau úa mọc quanh
Tre gầy mấy bụi chẳng xanh chẳng vàng
Sớm chiều rặt tiếng kêu than
Lúc quyên khắc khoải khi mang lạc bầy
Xuân hoa thu nguyệt hằng khi
Chén nâng chén cạn cũng thì mình thôi
Hát ca kể cũng có người
Lô lô líu líu vắng thời lại hơn
Hữu duyên kỳ ngộ diệu âm
Nhiệt tình danh kỹ cảm ân muôn vàn
Ban rồi liệu nữa lại ban?
Vì ai xin viết nên trang Tỳ Bà”
Muốn rời, chạnh cảm lòng ta
Trục xoay dây đọ nghe ra cấp kỳ
Tơ rung khéo não nuột chi
Khắp quanh chiếu tiệc lệ thi ứa giàn
Đau lòng nhất, một ông quan
Áo xanh hứng lụy chan chan, ướt đầm!


Bản dịch thơ khác

Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu
Người xuống ngựa, khách dừng chèo
Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ti
Say những luống ngại khi chia rẽ
Nước mênh mông đượm vẻ gương trong
Ðàn ai nghe vẳng bên sông
Chủ khuây khỏa lại, khách dùng dằng xuôi
Tìm tiếng sẽ hỏi ai đàn tá?
Dừng dây tơ nấn ná làm thinh
Dời thuyền ghé lại thăm tình
Chong đèn, thêm rượu, còn dành tiệc vui
Mời mọc mãi, thấy người bỡ ngỡ
Tay ôm đàn che nửa mặt hoa
Vặn đàn mấy tiếng dạo qua
Dẫu chưa nên khúc, tình đà thoảng hay
Nghe não nuột mấy dây buồn bực
Dường than niềm tấm tức bấy lâu
Mày chau tay gẩy khúc sầu
Dãi bầy hết nỗi trước sau muôn vàn
Ngón buông, bắt khoan khoan dìu dặt
Trước Nghê Thường sau thoắt Lục Yêu
Dây to nhường đổ mưa rào
Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng
Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy
Mâm ngọc đâu bỗng nẩy hạt châu
Trong hoa oanh ríu rít nhau
Nước tuôn róc rách, chảy mau xuống ghềnh
Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt
Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ
Ôm sầu, mang giận ngẩn ngơ
Tiếng tơ lặng ngắt, bây giờ càng hay
Bình hạc vỡ tuôn đầy dòng nước
Ngựa sắt giong, xô xát tiếng đao
Cung đàn trọn khúc thanh tao
Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây
Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt
Một vầng trăng trong vắt lòng sông
Ngậm ngùi đàn bát xếp xong
Áo xiêm khép nép hầu mong giãi lời
Rằng: “Xưa vốn là người Kẻ Chợ
Cồn Hà Mô trú ở lân la
Học đàn từ thuở mười ba
Giáo phường đệ nhất chỉ đà chép tên
Gã Thiện Tài sợ phen dừng khúc
Ả Thu Nương ghen lúc điểm tô
Ngũ Lăng, chàng trẻ ganh đua
Biết bao the thắm chuốc mua tiếng đàn
Vành lược bạc gẫy tan dịp gõ
Bức quần hồng hoen ố rượu rơi
Năm năm lần lữa vui cười
Mải trăng hoa chẳng đoái hoài xuân thu
Buồn em trảy, lại lo dì thác
Sầu hôm mai đổi khác hình dong
Cửa ngoài xe ngựa vắng không
Thân già mới kết duyên cùng khách thương
Khách trọng lợi khinh đường ly cách
Mải buôn chè sớm tếch nguồn khơi
Thuyền không, đậu bến mặc ai
Quanh thuyền trăng dãi, nước trôi lạnh lùng
Ðêm khuya, sực nhớ vòng tuổi trẻ
Chợt mơ màng dòng lệ đỏ hoen”
Nghe đàn ta đã chạnh buồn
Lại rầu nghe nỗi nỉ non mấy lời:
“Cùng một lứa bên trời lận đận
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau
Từ xa kinh khuyết bấy lâu
Tầm Dương đất trích gối sầu hôm mai
Chốn cùng tịch lấy ai vui thích
Tai chẳng nghe đàn địch cả năm
Sông Bồn gần chốn cát lầm
Lau vàng trúc võ âm thầm quanh hiên
Tiếng chi đó nghe liền sớm tối
Cuốc kêu sầu, vượn hót véo von
Hoa xuân nở, nguyệt thu tròn
Lần lần tay chuốc chén son ngập ngừng
Há chẳng có ca rừng, địch nội
Giọng líu lo, buồn nỗi khó nghe
Tỳ bà nghe dạo canh khuya
Dường như tiên nhạc gần kề bên tai
Hãy ngồi lại gẩy chơi khúc nữa
Sẽ vì nàng soạn sửa bài ca”
Ðứng lâu dường cảm lời ta
Lại ngồi lựa phím đàn đà kíp dây
Nghe não nuột khác tay đàn trước
Khắp tiệc hoa sướt mướt lệ rơi
Lệ ai chan chứa hơn người?
Giang Châu Tư Mã đượm mùi áo xanh.
(Phan Huy Vịnh hay Phan Huy Thực)



Thu Tứ



















__________
(1) Nguyễn Như Ý (chủ biên),
Đại từ điển tiếng Việt, nxb. Văn Hóa – Thông Tin, 1999.
(2) Triều Nguyên, “Ý nghĩa của ca, ngâm, hành, từ, khúc trong nhan đề thơ cổ”, trang
hannom.org.vn.
(3) Chúng tôi dịch thơ năm 2007. Tháng 4-2020, đọc lại, có sửa mấy câu ở phần mở đầu. Câu 3-10 vốn dịch như sau:
“Người xuống ngựa kẻ dừng đò / Chung nâng muốn cạn ngại trơ trường đình / Biệt ly vắng tiếng phách sênh / Đìu hiu trăng dãi mông mênh sóng sầu / Rẽ ràng chợt bắt buông mau / Kẻ đi người ở trông nhau ngỡ ngàng / Tỳ bà! tiếng ấy đâu sang? / Tay tiên ai gẩy nên vàng tơ rung...”. Chẳng biết sửa có hơn không?!
(4) “Trường đình” là cái trạm cách mười dặm. Tiễn nhau mà đến trường đình là tiễn xa. Bến Tầm Dương chắc khá xa nhà quan Tư mã, có thể xem là một thứ trường đình. Khách ra đó trước, chủ ra sau, cũng như khi Vương Duy tiễn Mạnh Hạo Nhiên (bài “Tống biệt” 2).
(5) “Rẽ ràng” là “nhỏ nhẹ, nhưng rành mạch”. Đây chúng tôi hình dung trong đêm thanh vắng, tiếng đàn tuy không lớn nhưng nghe rất rõ.