|
“Lê Vĩnh Hòa - Thơ và tùy bút”
Lê Vĩnh Hòa để lại vỏn vẹn mười mấy bài thơ. Tuy ít, thơ ông nội dung phong phú. Ngoài lòng yêu nước, nhớ quê, tình cảm hướng về “anh bộ đội”, “em giao liên”, ấn tượng kháng chiến, hoài niệm kháng chiến, ta còn thấy tình người, tình mẹ con, tình yêu nam nữ... Về thể loại, có bài là lục bát, có khi lục bát cổ vần gieo ở chữ thứ tư trong câu tám, chắc do còn phổ thông nơi ông lớn lên, có bài là thơ Mới, chủ yếu lối thơ tám chữ. Ngẫu nhiên, hay tự nhiên, trong sáu bài chọn sau đây thể loại có liên hệ rõ ràng với nội dung: tình cảm “truyền thống” được thể hiện thành lục bát, trong khi nội dung thời sự thì hóa thành thơ Mới.
Lê Vĩnh Hòa viết hình như chỉ có đúng một bài tùy bút. Sở dĩ ít vậy, chắc một phần do thể loại này rất khó vận dụng vào mục đích động viên tinh thần đông đảo quân dân.
Tuy số tác phẩm tiêu biểu không bao nhiêu, thơ và tùy bút có giá trị chứng tỏ khả năng thể hiện cảm nghĩ thành văn chương đa dạng của Lê Vĩnh Hòa. Nhà văn đã sống và chết chủ yếu trong quê hương khói lửa, có lẽ nếu ông được ở đời lâu hơn để trải nghiệm quê hương thanh bình, ta sẽ thấy một văn nghiệp bốn phần (ký, truyện, tùy bút, thơ) cân đối hơn.
“Anh về”
“Anh về có nhớ gì không? Tôi đi tôi nhớ con sông xóm nghèo Nhớ cây cầu khỉ cheo leo Nhớ khói lam chiều nhẹ tỏa đầu thôn Nhớ nắng vàng nhuộm cuối cồn Nhớ tối trăng tròn, tiếng hát hò vang (…) Ta mong non nước an hòa Ta mong đất nước một nhà anh em Trời cao dang rộng cánh chim Ta bay ngang dọc trên miền Tự do Hò khoan cất tiếng ta hò Ngợi câu: Thống nhất cơ đồ Việt Nam”.
Xóm nghèo sông có nhớ không? Nơi đây từng một tấm lòng bao la Nước non nay đã an hòa Hồn ơi, đã một, cơ đồ Việt Nam!
“Anh bộ đội”
“Anh bộ đội dừng chân bờ sông nhỏ Bé đưa tay mếu miệng đòi bồng Tóc như tơ, mắt rực sáng, má hây hồng Ôi thương quá mấy cái răng mới nhú Thương bàn chân như bột nặn trắng ngần Khi bé cười là có cả mùa xuân.
Sao bé biết đòi “Anh bộ đội”? Đơn vị hành quân chiều nay quá vội Bé đưa tay tiễn các chú đi - Cháu bé ơi, mai lớn thích súng gì? Theo đánh giặc cùng các anh, các chú.
Anh bộ đội qua bờ sông cũ Bé đâu? Tro xám phủ nền xưa Cỏ non mềm như mái tóc tuổi thơ Đã xanh mướt trên nấm mồ nho nhỏ Ôi em bé môi cười như hoa nở Sương đêm nay thấm đất lạnh thân em Đường hành quân sao nhấp nháy thâu đêm Như đôi mắt bé còn đang ứa lệ.
Nếu mai đây anh về không gặp mẹ Mái nhà xưa không còn giữa vườn cau Anh đâu khóc, bởi vì những giọt lệ Đâu thể làm vơi được nỗi thương đau!” (7-1966)
“Sao bé biết đòi”? Các bé Việt Nam đã quen lắm với “các anh, các chú” mà. Khoảng 20 năm trước ngày “anh bộ đội” đánh Mỹ này “dừng chân bờ sông nhỏ” nào đó trong Nam, được một “bé đưa tay mếu miệng đòi bồng”, một anh “lính râu ria” đánh Pháp đã vào một quán bờ sông ngoài Bắc hỏi bà chủ: “Chị ơi! Cháu ngủ đâu / Rồi anh bế con chị / (…) / Cô bé cười chúm chím / Mắt non nhìn như sao / (…) / Má hồng như trái mận” (thơ Quang Dũng).
“Cỏ non mềm (…) trên nấm mồ nho nhỏ / (...) / Nếu mai đây anh về không gặp mẹ”, tâm tình ấy cũng từng đã hóa thơ: “Mẹ tôi, em có gặp đâu không / Bao xác già nua ngập cánh đồng / Tôi nhớ một thằng con bé nhỏ / Bao nhiêu rồi xác trẻ trôi sông” (Q.D.).
Chúng nó đứa trước thì chiếm nước, đứa sau thì chia hai nước, ta đánh đuổi thì chúng giở đủ thứ trò vô nhân đạo với nhân dân ta. “Anh đâu khóc, bởi vì…”. Phải. Chỉ có “hành quân” mới “làm vơi được nỗi thương đau” này.
“Bài ca giao liên”
“Đêm phập phồng tôi qua lộ Đông Dương Thấy bóng em in trên nền trời sáng Súng trên tay, em cao lớn lạ thường Miệng khẽ hát bài “Mùa xuân có Đảng”… Bé em ơi, những tháng ngày gian khổ Em hiên ngang, trăng nhấp nhánh quanh xuồng Mang lựu đạn hai bên hông, bò qua lộ Em đã đưa đón khách bao lần Em đã vượt vòng vây pháo nổ Quần bó chân, áo cột cổ, lưng trần Đất nước đêm nay mở những con đường Mái chèo em vượt nhiều sông, rạch Cánh đồng năn, con lung dài mút mắt Nơi bao nhiêu đoàn khách sang ngang Súng trên tay, bao nặng tải hàng Những thư nhà và công văn hỏa tốc Xuồng giấu rồi, em lội đường trơn trợt Tiếng ễnh ương trổi nhạc huềnh hoang Rồi gió rồi mưa, khách lạ quanh đồn Trăm thứ bận, trăm lần nguy hiểm Em thức trắng đêm, bật “xi-nhanh” tìm kiếm Hỏi đồng bào có gặp các anh không? Ôi những đêm qua lộ, qua sông Nhà ai đó tiếng ru con buồn rượi Ôi những đêm qua lung qua đồng Đồn giặc quét đại liên, trái sáng treo đọt chuối Kẻ thù đâu ngăn nổi bước chân em!
Từ đó mỗi lần lật tờ báo, anh xem Hoặc đọc lá thư từ miền đông gởi tới Bỗng nhớ em giao liên trong đêm tối Súng trên tay, cao lớn lạ thường Không biết giờ đây em còn mạnh giỏi Hay đã hy sinh sau những trận càn” (7-1965)
Giao liên… Giao thông và liên lạc. Dẫn đường và đưa thư. Công tác tuy khiêm tốn nhưng rất cần thiết cho hoạt động của quân kháng chiến, và cũng “trăm lần nguy hiểm” bởi địch thừa biết như thế. “Em đã đưa (…) bao nhiêu đoàn khách sang ngang”, nhưng thường đa số “khách” không thấy “em”, có thấy cũng không rõ mặt. “Em” điển hình là một cái bóng chợt xuất hiện trong “đêm phập phồng” để không lâu sau lại biến mất vào đêm. “Em” điển hình là một “bé em”, nhưng lại “cao lớn lạ thường” trong mắt những người anh hay để ý…
“Đội quân xung kích”
“Trưa nay tôi qua hàng dừa Không còn bóng ai xe trân dệt chiếu Vắng những mái tóc buông dài lỏng lẻo Thiếu tiếng cười đùa, không tiếng hát ru em Trên sông trưa, không có mái chèo êm
Đã đi cả rồi đội quân xung kích”.
Ở những đất nước khác, điển hình giặc đến thì phụ nữ chạy cho xa giặc. Nhưng ở ta, rất nhiều phụ nữ lại xông về phía giặc. Có nữ du kích, nữ chiến sĩ pháo binh, nữ bác sĩ nữ y tá tiền tuyến, nữ lái xe hỏa tuyến, nữ thanh niên xung phong, nữ dân công... Gái Việt oai không gái nào bì gần kịp đâu.
“Nhớ ngoại ô”
“Mưa đêm chợt thức giấc Nghe gió mưa sấm sét Nằm trăn trở trên nền xi-măng lạnh ngắt Đêm mùa mưa ôi thương nhớ mênh mông Mưa đêm nay, có mưa về ngoại ô không? Năm tháng cũ xa rồi… sao vẫn nhớ Nhớ làm sao! đường gập ghềnh đá lở Tiếng xe khuya lọc cọc chở ai về Nhớ đêm đêm đâu đó giọng ủ ê Ru con nhỏ trong giọt mưa rả rích Ôi ngoại ô, xóm nghèo trong xiềng xích Có bóng ai đi diệt địch, phá tề” (6-1965)
Năm 1965 Lê Vĩnh Hòa đang ở vùng giải phóng. Chắc ông làm bài thơ này khi hồi tưởng một “đêm mùa mưa” “nằm trăn trở trên nền xi-măng lạnh ngắt” trong nhà tù Mỹ - Diệm “thương nhớ mênh mông” về tận thời trước 1954. “Có bóng ai đi…”. Chính là ông đó. Ông đã tham gia đánh Pháp, và sau khi ra khỏi chốn giam cầm hiện tại, ông sẽ lại “đi”, tham gia kháng chiến chống giặc mới, đóng góp với tất cả khả năng mình.
“Màu áo quê hương”
“Nhớ sao chiếc áo bạc màu Tháng năm vất vả dãi dầu nắng mưa Thuở nào trăng đẹp như thơ Anh sang bên ấy đắp bờ ruộng em Đôi tay em cấy dịu mềm Môi em duyên dáng cất lên giọng hò Hò rằng: - Tháng bảy mưa thưa Thương kẻ đắp bờ, không áo lạnh thay Ví dầu chỉ đó, kim đây Vải kia đã sẵn, ai may cho chàng? Hò rằng (...) em may áo giùm (…) Cho duyên thêm thắm, cho lòng anh vui Mai dù mưa gió đầy trời Áo kia anh mặc, ấm hơi tay nàng...”.
Hò qua hò lại xong, anh đi chợ mua vải, chỉ, “sang sông ghé nhà” nhờ em may, rồi “... mặc đi cày / đi bừa, đi trục, ngày ngày, đêm đêm”. Nhưng vì “Đời nghèo ăn một trả hai / Hẩm hiu rau cháo chẳng đầy sớm hôm / Đêm đêm trông ánh sao buồn / Nợ nần chưa dứt...”, nên mặc dù “mâm trầu với mấy buồng cau” đã đặt, “tình nghèo đã đượm, ngọt ngào nhớ mong”, anh chưa thể làm nốt thủ tục rước em về được. “Ngày qua chiếc áo bạc màu / Hai nhà vẫn cách chiếc cầu sang sông...”.
Còn đang chưa biết tính sao, thì “... bỗng rực lửa hồng / Quê hương tang tóc, non sông tơi bời / Ra đi vì nước em ơi! / Anh thân chiến sĩ, em nơi quê nhà”...
Lúc nào đó trên đường chinh chiến, “Áo xưa, nay đã không còn / Em xưa còn có chờ trông quê nhà?”.
Kỷ vật mất, nhưng “bao niềm nhớ thương” cứ ngày thêm tha thiết, hóa thành quyết tâm: “Anh về, em hãy chờ anh!” (12-1956)
Tình nghèo biết tỏ sao đây Đường kim mũi chỉ khâu may cho người Áo xưa mất đã lâu rồi Hơi tay em vẫn ấm hoài lòng anh...
“Vắng bóng”
“Qua kẽ hở của hàng xương rồng cao quá đầu, chỉ thấy bên trong loáng thoáng bóng người qua lại, tôi nghe nhiều hơn: tiếng chân vừa nhanh vừa nhẹ, đúng là bước chân con gái, những giọng thanh thanh, tiếng cười khúc khích (...) tiếng lóc cóc của thoi đưa, tiếng sè sè của xa quay chỉ (...) Thỉnh thoảng, tôi dám liếc nhanh vào (...) một mảnh sân con với hai cây vú sữa (...) căn nhà ngói cũ kỹ (...) ngoài hàng ba có đôi cô con gái ngồi quay tơ, bên trong thiếu ánh sáng chỉ thấy lờ mờ những làn chỉ trắng của vài ba cái khung cửi. Và bóng những người con gái tóc xõa ngang vai, vừa đi vừa chạy, ra vào nhộn nhịp (...) một nhà nuôi tằm dệt lụa (...) quang cảnh lao động rộn rịp không hiểu sao cứ khiến lòng tôi trở nên ấm áp và tin yêu (...)
(“Tôi” không phải là dân làng ấy. Một hôm đang đi ngoài đường thì gặp lại một người bạn, được mời về nhà chơi. Hóa ra ngôi nhà có “nhiều con gái” đó là nhà bạn.) Chúng tôi vào cổng (...) Tiếng thoi đưa, tiếng quay chỉ và tiếng chân vừa đi vừa chạy ngừng hẳn lại. Lộc giới thiệu (...) Các cô gái bẽn lẽn một chút, rồi tiếng thoi lại bắt đầu lọc cọc, quay chỉ kêu sè sè và tiếng chân ra vô lại nện nhè nhẹ trên nền đất ẩm. Bốn cái khung cửi quay mặt vào nhau, giăng giăng những hàng tơ vàng óng ánh, những bàn tay giựt thoi và đập vỗ nhanh nhẹn nhịp nhàng. Ba cái xa quay vấn tơ vào suốt. Ở phía sau nhà trên mấy cái gác là những nong tằm ăm ắp lá dâu xanh. Hai cô con gái cắm cổ xắt lá. Bà cụ thân mật: “Cây nhà lá vườn đó con à. Mà mấy cậu bây giờ không mấy ai thích thứ đồ mộc mạc này nữa” (...)
Bẵng đi hai năm, tôi lại có dịp về ngang xóm cũ. Một buổi chiều nắng dìu dịu. Bóng tre rợp mát đường làng. Tôi đi qua hàng xương rồng xanh (...) Không có bóng người và cũng vắng hẳn những âm thanh quen thuộc trước kia (...) Vẫn sân vẫn nhà, nhưng cảnh đìu hiu như đã chết tự bao giờ. Chỉ có một mình bà cụ đang chậm chạp quét lá khô ở mé vườn (...) “Nghỉ hè năm nay anh Lộc không về đây chơi sao bà?”. “Ờ thằng Lộc năm nay không về con à”. Tôi đưa mắt nhìn những khung cửi đã được tháo ra nằm xếp đống ở hè nhà và mấy cái xa quay bám đầy mạng nhện, lòng bùi ngùi như tiếc thương một cái gì thân yêu đã mất. “Lóng này ở nhà không dệt lụa nữa hay sao bà?”. “Dẹp lâu rồi con”(chắc vì “khó sống lắm”) (...) “Vắng tiếng thoi, tiếng quay chỉ, tiếng mấy đứa con gái buồn quá! Mà biết làm sao bây giờ hả con?”. Tôi lặng thinh, buồn rầu đưa mắt nhìn ra sau nhà. Những hàng dâu xanh mướt ngơ ngác đợi chờ (...) Tôi từ giã bà cụ ra về (...) Ðường chiều lung linh ánh nắng. Lá tre thưa thớt rơi buồn”.
Tùy bút là văn xuôi không cốt kể một câu chuyện hay tả một cái gì, mà nhằm thể hiện cảm nghĩ của tác giả. Bài văn này là tùy bút, vì nó chủ yếu thể hiện cái cảm xúc “bùi ngùi như tiếc thương một cái gì thân yêu đã mất” của “tôi”. Dâu “ngơ ngác đợi chờ” tằm, còn người “đưa mắt nhìn” thì buồn rầu trước cuộc bể dâu đã xảy đến cho nghiệp dâu tằm.
Thu Tứ Tháng 4-2017
|
|