|
“Khê cư”
của Liễu Tông Nguyên
Chà, ở phương bắc đội mũ cỡi ngựa lâu ngày căng muốn… đứt, giờ xuống phương nam đổi qua đội nón chèo thuyền thảnh thơi, coi bộ thích chí dữ.
Nguyên văn
Cửu vi trâm tổ thúc Hạnh thử nam di trích Nhàn y nông phố lân Ngẫu tự sơn lâm khách Hiểu canh phiên lộ thảo Dạ bảng hưởng khê thạch Lai vãng bất phùng nhân Trường ca Sở sơn bích.
Dịch nghĩa
Bị việc làm quan ràng buộc lâu ngày May được đi đày ở phương nam Sống giãn theo những người làm ruộng làm vườn Ngẫu nhiên mà trở nên chẳng khác dân rừng núi Buổi sáng đi cày lật cỏ đầy sương móc Đêm chèo thuyền (đi chơi) làm vang động đá khe Khi đi lúc về không gặp một người nào Hát nghêu ngao giữa núi Sở xanh biếc.
Dịch thơ
Làm tôi mũ áo lâu ngày Ði đày xứ lạ mới hay chữ nhàn Ruộng vườn túc tắc tình tang Ô hay, thoắt đã nghe quen nếp rừng Sớm cày lật đám cỏ sương Thung thăng chiếc lá, đêm luồn núi chơi (1) Gặp ư? Chẳng một bóng người! Tung tăng thích chí vang trời hát ngao… Bản dịch thơ khác
Lâu đã bị trâm thao trói buộc May được đày đất thuộc Nam di Nhàn có vườn ruộng cạnh kề Không ngờ lại giống khách kia núi rừng Ngày cày cỏ, lật từng mảnh một Ðêm chèo thuyền, theo hút đá khe Gặp ai đâu, lúc đi về Trong xanh trời Sở, hát nghe một bài. (Trần Trọng Kim)
Thu Tứ
________ Tên bài nghĩa là “Sống chỗ núi rừng”. (1) Thơ Nguyễn Khuyến: “Thung thăng chiếc lá, rượu lưng bầu”.
|
|