“Tình bạn trong thơ Đường” (II)




Bạch Cư Dị có lẽ là thi nhân đời Đường có nhiều bài thơ chứa tình bạn hay được nhắc đến nhất. Những “Sầu kiến chu hành phong hựu khởi / Bạch đầu lãng lý bạch đầu nhân”, “Bất túy Tầm Dương tửu / Yên ba sầu sát nhân” v.v., ai mà chẳng nhớ.

Như khá điển hình đương thời, hoạn lộ của Bạch Cư Dị có lúc trắc trở. Nên cùng là đưa tiễn mà khi này ông khóc ướt khăn thương bạn già cuộc sống còn trôi nổi, khi khác ông lại khóc ướt áo cho chính mình đang bị lưu đày, bận ấy nhờ chịu khó đêm khuya cưỡi ngựa ra tận bến sông mà ông sáng tác được một bài thơ trường thiên để đời…

Thơ tình bạn thường làm dịp người đi kẻ ở. Gặp nhau thỉnh thoảng cũng nên thơ. Gió mát, trăng thanh, yên tĩnh, “lòng riêng đương thú với lòng” bỗng nhiên người cũ đến, thú được sẻ với người ấy, hóa ngay vần!

“Lâm giang tống Hạ Chiêm”

Bảy mươi bây giờ còn dưới tuổi thọ trung bình, nhưng mười mấy thế kỷ trước là “cổ lai hy”. Bạn của Bạch Cư Dị sống tới tuổi hiếm mà vẫn không nhà cửa, vẫn trôi nổi nay đây mai đó. Thì có thế khăn mới ướt, chứ chính Bạch Cư Dị chắc cũng già như bạn, “tuổi già hạt lệ như sương”, nếu chuyện không đáng xúc động lắm thì “hơi đâu chuốc lấy hai hàng chứa chan”.(1) Bài thơ này câu cuối rất gợi: sóng sông hay chính sóng đời!...

Nguyên văn

Bi quân lão biệt lệ triêm cân
Thất thập vô gia vạn lý thân
Sầu kiến chu hành phong hựu khởi
Bạch đầu lãng lý bạch đầu nhân.


Dịch nghĩa

Thương bác già phải ly biệt, nước mắt (tôi) ướt khăn / Bảy mươi vẫn không nhà, sống nay đây mai đó / Buồn thấy thuyền vừa rời bến, gió lại nổi lên / Giữa sóng bạc đầu có một người đầu bạc.

Dịch thơ

Bản 1:

Xót người trắng tóc chưa yên
Bẩy mươi còn vẫn nổi nênh sông hồ
Thuyền rời, gió khéo nổi xô
Trùng vây sóng bạc, ngất ngơ thân già...
(2)

Bản 2:

Bẩy mươi vẫn chửa có nhà!
Ra sông tiễn bạn, lệ già ướt khăn
Thuyền vừa rời bến, gió lên
Đầu sương sóng bạc nổi nênh xa kìa!...


Bản dịch thơ khác

Muôn dặm thương anh, lệ biệt sầu
Bảy mươi tuổi tác, cửa nhà đâu!
Buồn trông trận gió theo thuyền nổi
Sóng bạc đầu quanh khách bạc đầu.
(Tản Đà)

“Thu giang tống khách”

Chia tay nhau, vào mùa nào thì “hay” nhất nhỉ? Xuân xanh: không hợp. Hạ vàng: cũng không hợp. Đông xám xịt đúng hướng... màu, nhưng mà quá. Lên đường lúc nào đó trong mùa thu, khi “non xa khởi sự nhạt sương mờ, đã nghe rét mướt luồn trong gió, đã vắng người sang những chuyến đò” là ấn tượng nhất.(3) Đi nào chỉ bằng thuyền, nhưng dường như xuống thuyền là cách đi đặc biệt “nên thơ”. Anh em, bạn bè, thái tử với tráng sĩ v.v., hễ chia tay là kéo nhau ra bờ sông, cho dễ có bài thơ kỷ niệm!

Nguyên văn

Thu hồng thứ đệ quá
Ai viên triêu tịch văn
Thị nhật cô chu khách
Thử địa diệc ly quần
Mông mông nhuận y vũ
Mạc mạc mạo phàm vân
Bất túy Tầm Dương tửu
Yên ba sầu sát nhân.


Dịch nghĩa

Mùa thu ngỗng trời lần lượt bay qua / Hôm sớm nghe vượn kêu thảm / Ngày ấy khách một mình trên thuyền / Ðất này cũng chốn người xa bạn bầy / Mưa tối trời thấm ướt áo / Mây mờ mịt (thấp như) chạm buồm / Không say rượu Tầm Dương / Khói sóng sẽ làm buồn chết mất.

Dịch thơ

Trời thu lớp lớp nhạn bay
Khóc ai hôm sớm vượn gầy kêu than
Sông kia ngày ấy lìa đàn
Thân đơn thuyền lẻ muôn vàn bến đây
Mưa ướt áo mưa cứ bay
Mây sa buồm khuất càng day dứt lòng
Không say túy lúy không xong
Kìa kìa sóng khói chực xông giết người!


Bản dịch thơ khác

Nhạn thu lần lượt bay qua
Thảm thương tiếng vượn hôm đà lại mai
Ngày nay một chiếc thuyền ai
Nước non này cũng chia phôi cách đàn
Mưa đầm vạt áo như chan
Buồm đi, man mác mây ngàn đón ngang
Chẳng say chén rượu Tầm Dương
Khỏi sao sóng, khói sầu thương chết người.
(Tản Đà)

“Thảo”

Sâu cũng nên thơ, cỏ cũng nên thơ, hay ghê.(4) Năm xửa năm xưa, giữa đồng cỏ mênh mông xanh ăm ắp đâu đó trong nước Tàu đời Đường, có hai người bạn bịn rịn chia tay...

Nguyên văn

Li li nguyên thượng thảo
Nhất tuế nhất khô vinh
Dã hỏa thiêu bất tận
Xuân phong xuy hựu sinh
Viễn phương xâm cổ đạo
Tình thúy tiếp hoang thành
Hựu tống vương tôn khứ
Thê thê mãn biệt tình.


Dịch nghĩa

Trên đồng cỏ đang mọc rậm rì / Hàng năm cứ khô lụn đi rồi tốt tươi trở lại / Nông dân gặt hái xong là đốt mà không hết / Hễ có gió xuân thổi là lại mọc lên / Mùi cỏ thơm bay xa tận con đường xưa / Trời quang thấy cỏ xanh lan tận chân thành cũ / Lại tiễn khách quý lên đường / Cỏ sum suê như tình chan chan lúc chia tay.

Dịch thơ

Kìa trông đã lại vun tươi
Không không có có năm trời vòng xoay
Lửa đồng thiêu đốt, còn đây
Gió xuân vừa thổi lên ngay ngập gò
Cỏ thơm thơm tận lối xưa
Cỏ xanh xanh biếc mãi bờ thành hoang
Tiễn đưa bạn quý lên đàng
Sum suê dáng cỏ chan chan biệt tình...


Bản dịch thơ khác

Đồi cỏ dờn dờn lọn bóng hôm
Một năm mắt khách một lần nom
Nắng phơi đồng nọ màu vàng nhuộm
Gió thổi xuân kia vẻ biếc hôm
Ngoảnh lại thơm lừng bên lối lấp
Trông lên xanh ngắt góc thành trùm
Ngang đường lơ lãng như chào khách
Hiu hắt chiều xuân cỏ mấy chòm.
(Tú Xương)

Ðồng cao cỏ mọc như chen
Khô tươi thay đổi hai phen năm tròn
Lửa đồng thiêu cháy vẫn còn
Gió xuân thổi tới mầm non lại trồi
Xa xa thơm ngát dặm dài
Thành hoang láng biếc khi trời tạnh mưa
Vương tôn đi lại tiễn đưa
Biết bao tình biệt đầm đìa lướt theo.
(Tản Đà)

“Hữu nhân dạ phỏng”

Nguyễn Tuân có lần bất chợt ghé thăm Tản Đà. Nhà thơ trông thấy bạn trẻ, cười thốt: “Cố nhân lai!”(5) Lần ấy Tản Đà đang chẳng được “ý chính như thử” tí nào, thành ra tri kỷ đến hóa buồn thành vui chứ không phải đến thêm vui như trong cái đêm sau đây của Bạch Cư Dị…

Nguyên văn

Thiềm gian thanh phong điệm
Tùng hạ minh nguyệt bôi
U ý chính như thử
Huống nãi cố nhân lai.


Dịch nghĩa

Ngoài hiên gió mát trải chiếu ngồi / Dưới thông chén rượu in bóng trăng / Im vắng thế này là rất hợp ý / Ðã thế lại có bạn cũ đến thăm.

Dịch thơ

Hiu hiu gió mát hiên nhà
Dưới thông chiếu trải khề khà chén trăng
Vui đang lừng giữa đêm thanh
Tri âm đâu chợt ghé thăm, tuyệt vời!


Bản dịch thơ khác

Thềm cao gió mát chiếu đan
Chén soi bóng nguyệt bàng hoàng dưới thông
Lòng riêng đương thú với lòng
Lại đâu người cũ lạ lùng đến thăm.
(Tản Đà)

“Tỳ bà hành”

Một đêm thu mười mấy thế kỷ trước ở đâu đó phía nam Trung Quốc, có một ông quan cưỡi ngựa ra một cái bến sông tiễn một người bạn đã xuống thuyền, sắp lên đường. Thời ấy bên Tàu bạn bè tiễn nhau cẩn thận lắm. Tiễn gần, tiễn xa, bạn càng thân tiễn càng xa. Điển hình, không phải người đi kẻ ở ngồi suông với nhau, mà bày tiệc rượu, lý tưởng thì tiệc có cả người đàn hát giúp vui. Nhưng vùng này rất đỗi quê mùa. “Bác thông cảm vậy, ở đây chẳng tìm đâu ra ai biết đàn biết hát”. Hai người bạn ngồi uống rượu trong im lặng, cũng đã say mà không thấy vui lên chút nào, bên ngoài thì mặt sông mênh mông dầm trong ánh trăng bàng bạc, phút biệt ly sắp tới buồn quá thể!...

Nguyên văn

Tầm Dương giang đầu dạ tống khách
Phong diệp địch hoa thu sắt sắt
Chủ nhân há mã khách tại thuyền
Cử tửu dục ẩm vô quản huyền
Túy bất thành hoan thảm tương biệt
Biệt thời mang mang giang tẩm nguyệt (…)


Dịch nghĩa

Bến Tầm Dương, ban đêm tiễn khách / Lá phong, hoa lau, hơi thu se sắt / Chủ nhân xuống ngựa, khách đợi dưới thuyền / Cùng nâng chén muốn uống mà thiếu tiếng sáo, đàn / Nên say mà không vui, cuộc chia tay buồn thảm / Phút ly biệt, ánh trăng dầm mặt sông mênh mang (…)

Dịch thơ (6)

Ðêm thu bến nước tiễn nhau
Rừng phong hiu hắt bãi lau bơ sờ
Người xuống ngựa kẻ ngồi chờ
Chung nâng hiềm nỗi lặng trơ trường đình
(7)
Say mong khuây khỏa, không thành
Biệt ly sóng bạc trăng dầm, buồn sao
Rẽ ràng chợt bắt buông đâu
(8)
Người đi kẻ ở trông nhau ngỡ ngàng
Tỳ bà! Nghe những bàng hoàng
Như mơ mà thật, hãy còn tơ rung!
Thuyền dời tìm đến vui chung
Ðèn khêu rượu rót mặt mừng chờ hoa
Vị lời mời mọc thiết tha
Cao bưng kín nửa đàn ra bước hờ
Dây so mấy tiếng lưa thưa
Tứ cầm chưa giãi tình tơ đã bày
Nhạc đâu, đời chính là đây
Từng cung tấm tức, từng dây nghẹn ngào
Nhập thần vẫy khúc chiêm bao
Nhất sinh tâm sự tuôn trào đầy không
Nhặt, khoan, bắt bắt, buông buông
Lục Yêu tiếp đến Nghê Thường liền tay
Khi to rào rạt mưa bay
Lại khi lất phất lay phay mưa lòng
Nhỏ, to chen gẩy vào trong
Hạt châu lớn bé mâm bồng đua rơi
Lúc oanh lo líu chẳng ngơi
Lúc khe nước hóa bọt sôi cuối ghềnh
Rét đâu đông đứt dây mành
Tơ đang rung bỗng chỉ tằm trơ trơ
Ðàn im, hận khác vẻ đi
Không đàn, tình tứ hơn khi có đàn!
Bỗng như bình bạc vỡ tan
Bỗng như xung sát qua can trận tiền
Khúc chung, tay phất mặt đàn
Bốn dây một tiếng lụa vang xé trời
Ðông tây thuyền mảng rụng rời
Ðêm thu còn chỉ trăng ngời giữa sông!
Gẩy cài thờ thẫn cáo xong
Chỉnh trang khép nép cởi lòng mấy câu:
“Đế đô xa cách đã lâu
Vốn xưa thị tứ hồng lâu cũng gần
Tuổi mười ba học đã thuần
Tỳ bà đệ nhất danh cầm một phương
Đàn lên tài tử đều kiêng
Điểm trang xong, mặt chị em trĩu hờn
Bốc rời công tử đòi cơn
Lụa tung kín đất kim ngân lóa trời
Quỳnh tương rót rót vơi vơi
Hồn xiêu dáng ngả ngớn rơi ố hồng
Mai gió mát, tối trăng trong
Xuân đi ai ngỡ xuân không trở về
Dì, em bỗng chốc chia lìa
Nhớ thương hôm sớm lụy bề dung nhan
Héo hoa ai kẻ ngó ngàng
Trăm năm kiếm chút bạn đàng cho xong
Chồng tham buôn bán tây đông
Vợ đang lòng để bên sông dật dờ
Thuyền đơn bóng lẻ chơ vơ
Nước trôi trăng dõi gối trơ lạnh lùng
Trở trăn mơ lại tuổi xuân
Lệ trong mộng ứa rơi lăn má đời”
Tiếng tỳ nghe đã than ôi
Giờ thêm chuyện kể rã rời lòng ai:
“Cùng thân đất khách lạc loài
Dẫu chưa quen biết cũng coi cựu tình
Ta từng quan chốn đế kinh
Sa cơ phải giáng náu mình Tầm Dương
Một thân nằm bệnh viễn phương
Ðàn hay sáo ngọt vấn vương thôi đành
Nhà ta lau úa mọc quanh
Tre gầy mấy bụi chẳng xanh chẳng vàng
Sớm chiều rặt tiếng kêu than
Lúc quyên khắc khoải khi mang lạc bầy
Xuân hoa thu nguyệt hằng khi
Chén nâng chén cạn cũng thì mình thôi
Hát ca kể cũng có người
Lô lô líu líu vắng thời lại hơn
Hữu duyên kỳ ngộ diệu âm
Nhiệt tình danh kỹ cảm ân muôn vàn
Ban rồi liệu nữa lại ban?
Vì ai xin viết nên trang Tỳ Bà”
Muốn rời, chạnh cảm lòng ta
Trục xoay dây đọ nghe ra cấp kỳ
Tơ rung khéo não nuột chi
Khắp quanh chiếu tiệc lệ thi ứa giàn
Đau lòng nhất, một ông quan
Áo xanh hứng lụy chan chan, ướt đầm!


Bản dịch thơ khác

Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu, lau lách đìu hiu
Người xuống ngựa, khách dừng chèo
Chén quỳnh mong cạn, nhớ chiều trúc ti
Say những luống ngại khi chia rẽ
Nước mênh mông đượm vẻ gương trong
Ðàn ai nghe vẳng bên sông
Chủ khuây khỏa lại, khách dùng dằng xuôi
Tìm tiếng sẽ hỏi ai đàn tá?
Dừng dây tơ nấn ná làm thinh
Dời thuyền ghé lại thăm tình
Chong đèn, thêm rượu, còn dành tiệc vui
Mời mọc mãi, thấy người bỡ ngỡ
Tay ôm đàn che nửa mặt hoa
Vặn đàn mấy tiếng dạo qua
Dẫu chưa nên khúc, tình đà thoảng hay
Nghe não nuột mấy dây buồn bực
Dường than niềm tấm tức bấy lâu
Mày chau tay gẩy khúc sầu
Dãi bầy hết nỗi trước sau muôn vàn
Ngón buông, bắt khoan khoan dìu dặt
Trước Nghê Thường sau thoắt Lục Yêu
Dây to nhường đổ mưa rào
Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng
Tiếng cao thấp lựa chen lần gẩy
Mâm ngọc đâu bỗng nẩy hạt châu
Trong hoa oanh ríu rít nhau
Nước tuôn róc rách, chảy mau xuống ghềnh
Nước suối lạnh, dây mành ngừng đứt
Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ
Ôm sầu, mang giận ngẩn ngơ
Tiếng tơ lặng ngắt, bây giờ càng hay
Bình hạc vỡ tuôn đầy dòng nước
Ngựa sắt giong, xô xát tiếng đao
Cung đàn trọn khúc thanh tao
Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây
Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt
Một vầng trăng trong vắt lòng sông
Ngậm ngùi đàn bát xếp xong
Áo xiêm khép nép hầu mong giãi lời
Rằng: “Xưa vốn là người Kẻ Chợ
Cồn Hà Mô trú ở lân la
Học đàn từ thuở mười ba
Giáo phường đệ nhất chỉ đà chép tên
Gã Thiện Tài sợ phen dừng khúc
Ả Thu Nương ghen lúc điểm tô
Ngũ Lăng, chàng trẻ ganh đua
Biết bao the thắm chuốc mua tiếng đàn
Vành lược bạc gẫy tan dịp gõ
Bức quần hồng hoen ố rượu rơi
Năm năm lần lữa vui cười
Mải trăng hoa chẳng đoái hoài xuân thu
Buồn em trảy, lại lo dì thác
Sầu hôm mai đổi khác hình dong
Cửa ngoài xe ngựa vắng không
Thân già mới kết duyên cùng khách thương
Khách trọng lợi khinh đường ly cách
Mải buôn chè sớm tếch nguồn khơi
Thuyền không, đậu bến mặc ai
Quanh thuyền trăng dãi, nước trôi lạnh lùng
Ðêm khuya, sực nhớ vòng tuổi trẻ
Chợt mơ màng dòng lệ đỏ hoen”
Nghe đàn ta đã chạnh buồn
Lại rầu nghe nỗi nỉ non mấy lời:
“Cùng một lứa bên trời lận đận
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen nhau
Từ xa kinh khuyết bấy lâu
Tầm Dương đất trích gối sầu hôm mai
Chốn cùng tịch lấy ai vui thích
Tai chẳng nghe đàn địch cả năm
Sông Bồn gần chốn cát lầm
Lau vàng trúc võ âm thầm quanh hiên
Tiếng chi đó nghe liền sớm tối
Cuốc kêu sầu, vượn hót véo von
Hoa xuân nở, nguyệt thu tròn
Lần lần tay chuốc chén son ngập ngừng
Há chẳng có ca rừng, địch nội
Giọng líu lo, buồn nỗi khó nghe
Tỳ bà nghe dạo canh khuya
Dường như tiên nhạc gần kề bên tai
Hãy ngồi lại gẩy chơi khúc nữa
Sẽ vì nàng soạn sửa bài ca”
Ðứng lâu dường cảm lời ta
Lại ngồi lựa phím đàn đà kíp dây
Nghe não nuột khác tay đàn trước
Khắp tiệc hoa sướt mướt lệ rơi
Lệ ai chan chứa hơn người?
Giang Châu Tư Mã đượm mùi áo xanh.
(Phan Huy Vịnh hay Phan Huy Thực)



Thu Tứ








________
Nghĩa các tên bài: “Ra bờ sông tiễn bác Hạ Chiêm”, “Sông thu tiễn khách”, “Cỏ”, “Bạn đến thăm ban đêm”…
(1) Xem bài “Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến.
(2) Bài “Ngày xuân răn con cháu” của Nguyễn Khuyến: “Xuân về ngày loạn còn lơ láo, người gặp khi cùng cũng ngất ngơ”.
(3) Trong bài “Đây mùa thu tới” của Xuân Diệu.
(4) Bạch Cư Dị có bài thơ nhan đề “Thu trùng”.
(5) Xem bài “Tản Đà, chén rượu vĩnh biệt” của Nguyễn Tuân.
(6) Chúng tôi dịch thơ năm 2007. Tháng 4-2020, đọc lại, có sửa mấy câu ở phần mở đầu. Câu 3-10 vốn dịch như sau: “Người xuống ngựa kẻ dừng đò / Chung nâng muốn cạn ngại trơ trường đình / Biệt ly vắng tiếng phách sênh / Đìu hiu trăng dãi mông mênh sóng sầu / Rẽ ràng chợt bắt buông mau / Kẻ đi người ở trông nhau ngỡ ngàng / Tỳ bà! tiếng ấy đâu sang? / Tay tiên ai gẩy nên vàng tơ rung...”. Chẳng biết sửa có hơn không?!
(7) “Trường đình” là cái trạm cách mười dặm. Tiễn nhau mà đến trường đình là tiễn xa. Bến Tầm Dương chắc khá xa nhà quan Tư mã, có thể xem là một thứ trường đình. Khách ra đó trước, chủ ra sau, cũng như khi Vương Duy tiễn Mạnh Hạo Nhiên (bài “Tống biệt” 2).
(8) “Rẽ ràng” là “nhỏ nhẹ, nhưng rành mạch”. Đây chúng tôi hình dung trong đêm thanh vắng, tiếng đàn tuy không lớn nhưng nghe rất rõ.