Trước kia ta đội ít nhất mười ba thứ nón khác nhau! Mới có hơn hai thế kỷ, mà cả một văn hóa nón độc đáo giờ chỉ còn mỗi cái nón lá, mà coi như cũng chỉ còn thấy ngoài đồng ngày mùa…

Xem những phim
samurai, thấy người Nhật xưa kia cũng đội rất nhiều thứ nón. So của họ với của ta, thấy cùng có cái nón thúng. Người Nhật có “nón bô” (giống cái bô!), chẳng biết ta vốn có hay không?

Phạm Ðình Hổ viết bằng chữ Hán, vậy những cái tên “tục gọi” là do Ðông Châu Nguyễn Hữu Tiến cung cấp. Chắc cụ Nguyễn có biết hình dạng của những kiểu nón ấy. Giá cụ phác vẽ chúng ra...

(Thu Tứ)



Phạm Đình Hổ, “Nón đội”



Khi ta lên tám chín tuổi, thấy các ông già đội nón ngoan xác, tục gọi là nón "mền giải" hay là nón "tam giang"; con nhà quan và học trò các học hiệu thì đội nón phương đẩu đại, tục gọi là "nón lá"; họ hàng nhà quan và các ông già thì đội nón cổ châu, tục gọi là "nón dâu"; người lớn và trẻ con đội nón liên diệp, tục gọi là "nón lá sen"; con trai con gái, đàn ông đàn bà ở chỗ kinh kỳ đội nón cổ châu, trẻ con đội nón tiểu liên diệp, tục gọi là "nón nhỡ khuôn"; đàn ông đàn bà thôn quê, đội nón xuân lôi tiểu lạp, tục gọi là "nón sọ nhỏ"; lính tráng đội nón trạo lạp, tục gọi là "nón chèo vành"; người hầu hạ và vợ con lính tráng đội nón viên đẩu, tục gọi là "nón khua"; nhà sư và thầy tu đội nón cẩu diện, tục gọi là "nón mặt lờ"; người có tang đội nón xuân lôi đại, tục gọi là "nón cạp"; người có chở một năm trở xuống đội nón cổ châu, quai mây, chỉ có nhà quan và nhà quyền thế có tang thì đội nón cẩu diện để phân biệt. Người trong Thanh, Nghệ đội nón viên cơ, tục gọi là "nón Nghệ". Người Mán Mường ở ngoại trấn đội nón tiêm quang đẩu nhược, hình như nón khua, đầu nhọn, làm bằng vỏ măng nứa, khác với người mọi nơi. Đến khoảng năm Nhâm Dần, Quí Mão (1782 - 1783) quân Tam phủ biến loạn, cậy công làm càn, nhiều người đội nón viên cơ, để lẫn với quân lính. Đến năm Bính Ngọ (1786) trong nước có biến, lại bỏ nón viên cơ, đội nón cẩu diện, người có tang một năm trở xuống, buộc quai sợi trắng để phân biệt. Ở thôn quê, theo dáng nón ngoan xác mà làm thấp đi, gọi là nón toan bì, tục gọi là "nón vỏ bứa", thỉnh thoảng lại có người đội nón xuân lôi tiểu; còn những thứ nón tam giang, ngoan xác, phương đẩu, viên đẩu, cổ châu, liên diệp và trạo lạp thì không thấy nữa.


(Phạm Đình Hổ,
Vũ trung tùy bút, Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến dịch, Nguyễn Quảng Tuân khảo đính và chú thích, nxb. Trẻ, 1989)